Từ Công ước Hà Nội đến cơ hội kiến tạo trật tự số
Sự kiện Việt Nam đăng cai Công ước Hà Nội của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm mạng đánh dấu lần đầu tiên một quốc gia đang phát triển giữ vai trò trung tâm trong quá trình xây dựng khung pháp lý toàn cầu cho không gian mạng. Theo Bộ Công an, Công ước gồm 12 chương, 85 điều, quy định rõ các nguyên tắc hợp tác: Từ điều tra số, thu thập và chia sẻ chứng cứ điện tử, truy vết dòng tiền đến bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Bộ trưởng Công an Việt Nam Lương Tam Quang ký Công ước của Liên hợp quốc về Chống tội phạm mạng. Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN
Điểm đột phá lớn nhất là cơ chế “yêu cầu hỗ trợ khẩn cấp” giữa các quốc gia thành viên, cho phép phong tỏa tài khoản, truy cập dữ liệu hoặc chặn hạ tầng tấn công chỉ trong vài giờ, điều trước đây có thể mất hàng tháng.
Tại buổi ký kết, Trung tướng Nguyễn Minh Chính, Cục trưởng Cục An ninh mạng và Phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Bộ Công an) đã nhấn mạnh: “Công ước Hà Nội giúp các quốc gia phối hợp điều tra trong thời gian thực, rút ngắn quá trình xử lý và bảo vệ tốt hơn lợi ích người dân”.
Theo các chuyên gia, đây là bước chuyển từ đối phó sang chủ động kiến tạo trật tự số. Trong nhiều năm, Việt Nam là “nạn nhân thường xuyên” của các cuộc tấn công xuyên biên giới, nhưng với Công ước Hà Nội, quốc gia này đã trở thành điểm trung chuyển dữ liệu và điều phối hợp tác khu vực ASEAN.
Phát biểu tại sự kiện “BSides Hanoi 2025”, ông Vũ Duy Hiền, Phó Tổng Thư ký kiêm Chánh Văn phòng Hiệp hội An ninh mạng quốc gia (VNISA) cho biết: “Khi các quốc gia cùng chia sẻ chuẩn dữ liệu và quy trình pháp lý, AI phòng thủ có thể học tập từ nguồn thông tin chính thống. Công ước Hà Nội không chỉ giúp điều tra mà còn giúp các nước dạy AI nhận diện đúng kẻ thù”.
Theo ông Hiền, Việt Nam cần tận dụng vị thế chủ nhà để hình thành trung tâm điều phối chứng cứ điện tử khu vực, kết nối Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các hãng bảo mật quốc tế như Kaspersky, Palo Alto, Trend Micro.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Adrian Hia, Giám đốc Khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Kaspersky chia sẻ: “Công ước Hà Nội mở ra khả năng chia sẻ dữ liệu mối đe dọa hợp pháp giữa các quốc gia. Khi dữ liệu sạch và được xác thực, AI phòng thủ học nhanh hơn, chính xác hơn và ngăn chặn hiệu quả hơn”.
Không chỉ mang ý nghĩa ngoại giao, Công ước Hà Nội còn là đòn bẩy thể chế giúp Việt Nam chuẩn hóa Luật An ninh mạng (sửa đổi) và Nghị định bảo vệ dữ liệu cá nhân, đồng thời thúc đẩy đầu tư vào trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây và dịch vụ an toàn thông tin.
“Công ước Hà Nội không chỉ là cơ chế chống tội phạm, mà là tấm hộ chiếu cho Việt Nam bước vào nền kinh tế số toàn cầu một cách tự tin”, ông Hiền nhấn mạnh.
AI phòng thủ - từ công nghệ đến con người
Nếu như Công ước Hà Nội tạo hành lang pháp lý để hợp tác điều tra thì việc áp dụng AI trong phòng thủ an ninh mạng là bước đi mang tính “thực chiến”. Hiện Việt Nam đang vận hành ba tầng giám sát an ninh số: Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia (NCSC); hệ thống SOC chuyên ngành của các bộ, tập đoàn nhà nước; Mạng lưới CERT tại 63 tỉnh, thành.
Qua AI, các cơ quan an ninh mạng cũng có thể giám sát và truy tìm tội phạm mạng. Ảnh minh họa
Từ năm 2024, các đơn vị này đã tích hợp AI học sâu (deep learning) vào hệ thống giám sát, giúp phát hiện bất thường trong lưu lượng dữ liệu theo thời gian thực. Theo Cục An toàn thông tin, trong 9 tháng của năm 2025, hệ thống quốc gia đã ngăn chặn hơn 3,2 triệu cuộc tấn công, trong đó hơn 60% được phát hiện nhờ AI. Cơ chế này giúp nhận diện hành vi lạ trong vài giây, thay vì hàng giờ như trước.
Ông Ngô Tấn Vũ Khanh, Giám đốc Quốc gia Kaspersky Việt Nam cho biết: “AI giúp chúng ta chuyển từ phản ứng sang chủ động. Các mô hình học máy có thể phân tích hàng tỷ gói dữ liệu để dự báo nguy cơ, nhưng công nghệ không thể tự bảo vệ nếu thiếu con người được đào tạo để hiểu và kiểm soát nó”.
Khoảng trống nhân lực là thách thức lớn nhất hiện nay. Theo VNISA, mỗi năm Việt Nam cần khoảng 3.000 kỹ sư an ninh mạng, nhưng nguồn đào tạo mới đáp ứng được một nửa. Các tập đoàn bảo mật quốc tế như Kaspersky, Cisco hay Fortinet đang phối hợp cùng đại học trong nước mở chương trình “AI và An ninh mạng” kết hợp kỹ thuật, pháp lý và đạo đức số.
Ông Simon Tung, Tổng Giám đốc Kaspersky Đông Nam Á nhận định: “Bản địa hóa không chỉ là dịch thuật. Đó là điều chỉnh AI để hiểu hành vi, ngôn ngữ và văn hóa người Việt. Khi công nghệ được phát triển trên sự thấu hiểu, giải pháp bảo mật mới thực sự phát huy hiệu quả”.
Việt Nam hiện cũng là điểm trung chuyển dữ liệu an ninh mạng khu vực Đông Nam Á, khi các hãng quốc tế chọn đặt trung tâm nghiên cứu tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Các kỹ sư Việt tham gia trực tiếp vào chuỗi phòng thủ toàn cầu, nơi cảnh báo từ hệ thống trong nước được chia sẻ tức thì với mạng lưới quốc tế.
Tuy nhiên, việc ứng dụng AI trong phòng thủ cũng đặt ra rủi ro đạo đức. Ông Adrian Hia cảnh báo: “AI chỉ thực sự an toàn khi dữ liệu được thu thập minh bạch và sử dụng đúng mục đích. Càng nhiều dữ liệu sạch, hệ thống phòng thủ càng mạnh; nhưng ranh giới giữa phòng thủ và xâm phạm quyền riêng tư rất mong manh”.
Để kiểm soát, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng Bộ quy tắc đạo đức AI cho doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, yêu cầu các nền tảng đạt chuẩn ISO/IEC 27001 về quản trị dữ liệu. Việt Nam cũng đang đề xuất cơ chế chia sẻ thông tin tình báo mạng khu vực ASEAN - Nhật Bản - EU, mở đường cho hợp tác quốc tế về dữ liệu an toàn.
Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng Bộ quy tắc đạo đức AI cho doanh nghiệp và cơ quan nhà nước. Ảnh minh họa
Nhìn tổng thể, AI đang định hình lại cấu trúc phòng thủ số, từ việc tự động hóa phản ứng sự cố đến ra quyết định điều tra kỹ thuật số dựa trên phân tích hành vi. Nhưng yếu tố cốt lõi vẫn là con người, những kỹ sư có khả năng diễn giải kết quả của máy, hiểu bối cảnh và ra quyết định đúng lúc.
“Công nghệ là vũ khí, nhưng con người mới là người cầm vũ khí. Khi đào tạo và đạo đức được đặt song hành, AI sẽ không chỉ là công cụ phòng thủ, mà là nền tảng của niềm tin số quốc gia”, ông Khanh nhấn mạnh.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn mới của an ninh mạng chủ động, hợp tác và kiến tạo. Công ước Hà Nội là nền tảng pháp lý, AI phòng thủ là công cụ kỹ thuật, và con người là “bộ não” vận hành. Khi ba yếu tố này hội tụ, Việt Nam không chỉ bảo vệ được mình mà còn có thể trở thành trung tâm lá chắn số của khu vực, nơi công nghệ được dùng để củng cố niềm tin số quốc gia.
Hải Yên/Báo Tin tức và Dân tộc