BÀI 2: Sức nóng tín dụng và những rủi ro cần giám sát

BÀI 2: Sức nóng tín dụng và những rủi ro cần giám sát
12 giờ trướcBài gốc
Tín dụng đột biến trong kiểm soát
Theo số liệu của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), đến cuối tháng 11, tín dụng toàn hệ thống đã tăng khoảng 16%, mức cao nhất trong 10 năm. Báo cáo tài chính của các NH cũng cho thấy, ngay từ cuối quý III đã có nhiều nơi ghi nhận mức tăng tín dụng vượt xa bình quân ngành, thậm chí tiệm cận mức 30%.
Trên cơ sở đó, hầu hết các tổ chức dự báo tăng trưởng tín dụng cả năm có thể đạt 18-20%, mức cao hơn rõ rệt trong giai đoạn hậu Covid-19 (mức tăng trong các năm 2021-2024 chỉ dao động từ 13,6% đến 15,1%).
Diễn biến này phần nào gợi nhớ giai đoạn 2001-2007, thời kỳ tín dụng từng tăng trưởng “nóng” trên 30% mỗi năm và có năm vượt 50%. Tuy nhiên, mức tăng hiện nay vẫn thấp hơn đáng kể và bối cảnh cũng khác căn bản.
Trước đây tín dụng tăng mạnh trong khi huy động chỉ tăng quanh 20%/năm gây mất cân đối lớn và đưa nền kinh tế vào vòng xoáy lạm phát năm, khiến năm 2008 buộc phải chuyển trọng tâm sang việc ưu tiên kiềm chế giá cả và ổn định vĩ mô.
Nay tăng trưởng tín dụng nằm trong mục tiêu tính toán của NHNN, diễn ra trong điều kiện lạm phát được kiểm soát và phục vụ mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Đây là sự mở rộng có chủ đích, nhằm kích hoạt các động lực tăng trưởng mới thay vì sự bùng nổ thiếu kiểm soát như trước đây.
Tuy vậy theo các chuyên gia, khi tín dụng tăng nhanh cũng cần quan sát thận trọng những “điểm gợn”.
Theo ông Amit Ganju, Tổng Giám đốc Khối phát triển doanh nghiệp châu Á - Thái Bình Dương của Fitch Ratings, hầu hết các NH Việt Nam đều ghi nhận đòn bẩy tài chính và tăng trưởng cao, song rủi ro cũng gia tăng song hành với tốc độ phát triển. Do đó, bên cạnh lạc quan về triển trọng của ngành NH cũng cần chuẩn bị kỹ lưỡng cho những rủi ro và thách thức có thể phát sinh từ chính tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ này.
Những “điểm gợn” cần giám sát
Hiện nay, một trong những vấn đề được nhắc đến nhiều nhất là tỷ lệ tín dụng/GDP hiện đã lên tới 137%. Theo TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính NH, đây là mức rất cao và nhiều tổ chức quốc tế trước đó cũng cảnh báo về mức độ phụ thuộc vào tín dụng của nền kinh tế Việt Nam.
“Ngoài rủi ro tăng trưởng tín dụng nóng, hiện các NH Việt Nam còn đang gặp phải tình trạng dư nợ tín dụng cao hơn huy động nên họ phải huy động vốn nhiều hơn bằng việc tăng lãi suất”, ông Hiếu phân tích.
Ở góc độ chất lượng tài sản, rủi ro cũng tồn tại. Tính đến cuối quý III, tổng nợ xấu nhóm 3-5 tại 27 NH niêm yết đạt 274.050 tỷ đồng, tăng 19,1% so với cuối năm 2024, nhanh hơn tốc độ tăng tín dụng. Chỉ trong 9 tháng, nợ xấu tăng thêm hơn 44.000 tỷ đồng.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm từ 2,25% xuống 1,99%, nhưng mức giảm chủ yếu do dư nợ tín dụng phình to ra. Hơn nữa, nợ nhóm 2 tăng lên hơn 50.000 tỷ đồng, phản ánh nguy cơ nợ xấu mới có thể hình thành trong thời gian tới.
Một rủi ro khác là dòng vốn chảy mạnh vào bất động sản. Báo cáo của Công ty Chứng khoán VNDirect có nêu, tăng trưởng tín dụng BĐS trong 7 tháng đầu năm 2025 cao gần gấp đôi tốc độ chung và chiếm khoảng 24% dư nợ hệ thống.
“Việc tín dụng tăng cao hơn đã hỗ trợ tích cực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2025, tuy nhiên dòng tín dụng gia tăng vào bất động sản đang tiềm ẩn rủi ro cho hệ thống NH”, VNDirect nhận định.
TS. Nguyễn Đức Kiên, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, cũng nhận định tăng trưởng tín dụng năm nay rất cao, ước đạt 18-20%. Trong đó, tín dụng bất động sản tăng khoảng 24% và một số NH ghi nhận mức tăng cho vay bất động sản tới 28%.
Theo ông Kiên, để đảm bảo ổn định hệ thống, NHNN sẽ thanh tra và rà soát dư nợ tín dụng tại một số tổ chức tín dụng từ nay đến cuối năm, bởi mức tăng tới 28% tại một số NH nhỏ là dấu hiệu đáng báo động.
Bên cạnh đó là câu chuyện thanh khoản hệ thống. Dù đến cuối tháng 9 tiền gửi đạt gần 16,18 triệu tỷ đồng (tăng 3% so với cuối tháng 7), nhưng từ tháng 10 đến nay mặt bằng lãi suất huy động đã leo thang khi các NH liên tục điều chỉnh tăng. Ở kỳ hạn dưới 6 tháng, nhiều NH đã nâng lên quanh mức trần 4,75%/năm, trong khi kỳ hạn dài có nơi lên 6,7-6,8%/năm.
Khó tránh đua lãi suất
Thị trường liên NH cũng nóng lên rõ rệt. Ngày 2-12, lãi suất qua đêm và 1 tuần đã vọt lên 7,5%/năm. Để giảm áp lực thanh khoản, NHNN phải bơm ròng hơn 106.000 tỷ đồng trong tháng 11 và bơm thêm hơn 30.000 tỷ đồng trong những ngày đầu tháng 12 nhưng lãi suất liên NH qua đêm vẫn ở mức 7%/năm tại ngày 4-12.
TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, lãi suất qua đêm 7%/năm, cao hơn nhiều so với khoảng 4% tại Mỹ, phản ánh rõ sự căng thẳng thanh khoản. Khi thanh khoản eo hẹp, lãi suất đầu vào tăng, lãi suất cho vay chắc chắn sẽ điều chỉnh theo với độ trễ nhất định, làm tăng chi phí vốn của doanh nghiệp và người dân.
Nhiều chỉ báo khác cũng phản ánh sức ép thanh khoản ngày càng lớn. Theo VIS Rating, tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi (LDR) toàn ngành đã tăng lên 111%, cao nhất trong 5 năm. Tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) giảm mạnh xuống 19%, đặc biệt sụt giảm tại các NH nhỏ, nhóm vốn phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn giá rẻ để duy trì biên lãi ròng (NIM).
CASA giảm buộc các NH nhỏ phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn thị trường ngắn hạn, làm tăng rủi ro thanh khoản khi thị trường biến động. Trong khi đó, bộ đệm vốn của ngành vẫn còn mỏng, với tỷ lệ vốn chủ sở hữu hữu hình trên tổng tài sản hữu hình chỉ quanh 8,4%.
Về dài hạn, áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế sẽ còn lớn. TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu chính sách, Trường Đại học VinUni, cho rằng, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP 10%/năm đến năm 2030, tín dụng cần tăng bình quân 15%/năm, đồng nghĩa quy mô tín dụng sẽ phải tăng gấp đôi trong 5 năm tới. Nhưng huy động vốn những năm qua vẫn tăng chậm hơn tín dụng, tạo áp lực lên tỷ lệ an toàn vốn (CAR) và khả năng chống chịu của hệ thống NH.
VNDirect cũng nhận định, thanh khoản hệ thống đang chịu sức ép khi tín dụng tăng nhanh hơn huy động. Tỷ lệ LDR tăng trong khi dòng tiền ngắn hạn suy yếu, thể hiện qua mức tăng khoản phải thu lãi và phí.
Để bù đắp, các NH đã đẩy mạnh phát hành giấy tờ có giá, nhưng điều này có thể gây áp lực lên NIM. Trong bối cảnh dư nợ lớn tại các nhóm khách hàng liên quan, đặc biệt là lĩnh vực bất động sản, khả năng rủi ro thanh khoản tăng cao là điều không thể xem nhẹ.
Thông tư 14 về tỷ lệ an toàn vốn, có hiệu lực từ 15-9, sẽ tạo cú hích cho “cuộc đua tăng vốn” trong hệ thống NH. Khi đó, các NH có CAR thấp buộc phải giữ lại lợi nhuận, hạn chế chia cổ tức hoặc tăng vốn mới để đáp ứng yêu cầu.
Đồng thời, quá trình thay thế cơ chế hạn mức tín dụng bằng công cụ quản lý vốn dựa trên rủi ro sẽ thúc đẩy các NH tái cơ cấu danh mục, ưu tiên lĩnh vực rủi ro thấp và hướng tới mô hình tăng trưởng bền vững hơn.
Việc triển khai phương pháp xếp hạng nội bộ (IRB) cũng trở thành mục tiêu quan trọng nhằm tối ưu hệ số rủi ro và hỗ trợ tăng trưởng dài hạn.
THIÊN MINH
Nguồn SGĐT : https://dttc.sggp.org.vn/bai-2-suc-nong-tin-dung-va-nhung-rui-ro-can-giam-sat-post129344.html