Biến đổi khí hậu - biến số không thể bỏ qua
Từ cảnh báo tại các báo cáo khoa học, biến đổi khí hậu dần “chạm” tới từng người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế.
Với khu vực Bắc và Trung Bộ, những đợt mưa lũ lớn và kéo dài, xuất hiện liên tục trong ba tháng qua đã gây thiệt hại hàng chục nghìn tỉ đồng. Trong đó, hoàn lưu bão số 11 gây ra đợt ngập lụt lịch sử tại các tỉnh miền núi phía Bắc những ngày đầu tháng 10-2025, với thiệt hại ước tính hơn 8.700 tỉ đồng.
Với Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), hàng trăm nghìn ha đất bị ngập lụt do nước biển dâng, sụt lún đất, giảm lượng phù sa về đồng bằng và khai thác nước dưới đất quá mức. Kết quả, diện tích canh tác nông nghiệp sử dụng nguồn nước ngọt như lúa, màu, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản thu hẹp, dẫn tới năng suất và sản lượng suy giảm. Tương tự, năng suất cá nước ngọt dự kiến suy giảm, vì diện tích đất đồng bằng và dòng sông nhiễm mặn gia tăng.
Cây ăn trái của nông dân tỉnh Tây Ninh (Long An cũ) bị ngập do lũ làm vỡ bờ bao. Ảnh: Trung Chánh
Tuy nhiên, những con số thiệt hại chỉ phản ánh một phần thực tế. Phía sau những con số, là gánh nặng với người lao động và chủ doanh nghiệp giữa đồng ruộng tan hoang - cơ sở sản xuất bị tàn phá, kéo theo tác động về an sinh xã hội và di dân.
Còn báo cáo Việt Nam 2045 của Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo biến đổi khí hậu không chỉ làm chậm tăng trưởng, mà còn đe dọa thành quả giảm nghèo của Việt Nam trong nhiều thập kỷ.
Cụ thể, trong bối cảnh Việt Nam cần duy trì tăng trưởng GDP thực khoảng 7%/năm trong hai thập kỷ tới để đạt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, thì tác động khí hậu có thể làm tăng trưởng giảm thêm 0,5%/năm, khiến mục tiêu này bị trì hoãn nhiều năm. Đồng thời, thu ngân sách giảm và chi tiêu công tăng để khắc phục hậu quả thiên tai khiến cân đối tài khóa có thể thâm hụt thêm 0,8% GDP vào năm 2050.
Thậm chí, nếu không có hành động thích ứng, khoảng 0,1-1,1 triệu người có thể bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo vào năm 2050.
Trước thách thức mang tính thời đại, dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng đã bổ sung nhiệm vụ bảo vệ môi trường, thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, xây dựng thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn gắn với phát triển kinh tế - xã hội vào nhóm nhiệm vụ trọng tâm.
Nhiệm vụ này, cùng thông điệp “coi hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân là thước đo thành công của Nhà nước”, cùng định hướng chuyển đổi toàn diện cơ cấu kinh tế sang kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, với mục tiêu đưa đóng góp của nhóm ngành này lên mức 30% GDP tới năm 2030, đã phản ánh nhận thức mới, toàn diện của Đảng về phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột, gồm: kinh tế, xã hội, môi trường.
Theo bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú, Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, với các mục tiêu đầy tham vọng đến năm 2050, gồm: phát thải ròng bằng 0 và tăng trưởng kinh tế hai con số, Việt Nam không chỉ phụ thuộc vào kinh tế, mà còn cần năng lực quản trị chiến lược vững mạnh và Chính phủ hiệu quả, hướng tới phát triển bền vững, thay vì chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế.
Do đó, tăng cường khả năng phân tích xu hướng và thích ứng linh hoạt với những biến động, dựa trên dữ liệu và bằng chứng thực tiễn, là rất cần thiết. “Một điều chắc chắn là sẽ xuất hiện các cuộc khủng hoảng và cú sốc mới, đặc biệt là khủng hoảng khí hậu. Vấn đề là thích ứng hiệu quả, dựa trên dữ liệu và bằng chứng, để dự báo xu hướng và điều chỉnh chính sách một cách năng động. Đồng thời, vẫn giữ được tinh thần chăm lo của Chính phủ với người dân”, bà Ramla Khalidi nói và cho rằng cách tiếp cận “lấy người dân làm trung tâm” sẽ giữ vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển bao trùm và bền vững của Việt Nam.
Thực hiện song song giải pháp ngắn – dài hạn
Thực tế, trước tác động của biến đổi khí hậu và yêu cầu từ thị trường quốc tế, không ít mô hình sản xuất – kinh doanh bền vững, theo hướng tuần hoàn, đã được triển khai thời gian qua.
Nông dân xã Tràm Chim (Đồng Tháp) giữa khu vực ruộng bị ngập do lũ. Ảnh: Trung Chánh
Với lĩnh vực công nghiệp, Nhựa Duy Tân đầu tư dây chuyền tái chế nhựa PET hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế để sản xuất hạt nhựa tái sinh cho ngành bao bì thực phẩm. Còn Hòa Phát, Pomina sử dụng phế liệu thép làm nguyên liệu đầu vào.
Rộng hơn, các KCN dần chuyển đổi sang mô hình sinh thái, nơi các doanh nghiệp chia sẻ tài nguyên, năng lượng, nước và chất thải để tạo ra giá trị gia tăng. Điển hình là KCN Amata Biên Hòa (Đồng Nai) và Nam Cầu Kiền (Hải Phòng), với các sáng kiến về chia sẻ tài nguyên và xử lý chất thải tập trung.
Với lĩnh vực nông nghiệp, đề án phát triển bền vững một triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại ĐBSCL đã bước đầu mang lại hiệu quả khi sản phẩm mang thương hiệu "Gạo Việt xanh phát thải thấp" đã xuất khẩu sang Nhật Bản và chuẩn bị xuất khẩu sang Australia.
Thậm chí, những doanh nghiệp tiên phong chuyển đổi xanh cũng bày tỏ mong muốn nhân rộng mô hình sản xuất – kinh doanh tuần hoàn, khi các thị trường xuất khẩu lớn gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… đều đã triển khai mạnh mô hình này. Hơn nữa, các hiệp định thương mại tự do như EVFTA, CPTPP cũng quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn tái chế và môi trường.
Nhưng tại một diễn đàn về thực hiện kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam diễn ra tuần qua, ông Phạm Hồng Điệp, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Shinec, thừa nhận việc triển khai còn khó khăn, do chính sách chưa nhất quán. Cụ thể, luật Bảo vệ môi trường năm 2020 mới đề cập sơ lược đến kinh tế tuần hoàn, Nghị định 35/2022 về KCN, khu kinh tế chỉ nhắc đến KCN sinh thái, nhưng các quy định còn thiếu tính đồng bộ với Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư và nhiều luật khác.
Điều này khiến một số mô hình như DEEP C và Nam Cầu Kiền chưa được các cơ quan quản lý trong nước thừa nhận là KCN sinh thái, dù đã được quốc tế công nhận đạt chuẩn KCN sinh thái toàn cầu.
“Một địa phương muốn phát triển KCN sinh thái, phải có quy hoạch xử lý chất thải, tái chế, nhưng nhiều nơi chưa tích hợp nội dung này. Như vậy, chủ trương thì có, nhưng quy hoạch thiếu khiến dự án không thể triển khai,” ông Điệp nói và mong các cấp quản lý ban hành một Luật hoặc Nghị định riêng về kinh tế tuần hoàn.
Đồng quan điểm, ông Lê Xuân Thịnh, Giám đốc Công ty TNHH trung tâm sản xuất sạch hơn Việt Nam (VNCPC), cho rằng cần hoàn thiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn về kinh tế tuần hoàn, là cơ sở để doanh nghiệp triển khai.
“Nhiều yếu tố bổ trợ cho doanh nghiệp còn thiếu, như các quy chuẩn, tiêu chuẩn về xác định thế nào là kinh tế tuần hoàn, thế nào là chất thải có thể tái chế được… Hiện nay chúng ta chưa có nhiều văn bản pháp quy hoặc tiêu chuẩn như vậy để cho doanh nghiệp cần triển khai”, ông Thịnh phân tích.
Cũng theo ông Thịnh, cơ quan quản lý cần có sự hỗ trợ tích cực trong các vấn đề như ưu đãi thuế, tiếp cận nguồn vốn. Đồng thời, xây dựng lộ trình áp dụng kinh tế tuần hoàn phù hợp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa - nhóm chiếm đa số trong cộng đồng doanh nghiệp.
Trong ngắn hạn, hai chuyên gia của Đại học RMIT Việt Nam là TS Vũ Thị Hồng Nhung và TS Phan Thanh Chung cho rằng cần có giải pháp cải thiện hạ tầng, nhằm thích với ngập lụt - hiện là trạng thái ‘bình thường mới’ của đô thị Việt Nam. Chẳng hạn, cải tạo, gia tăng chức năng, nhằm đưa công viên, quảng trường, bãi đỗ xe và hành lang ven sông thành hạ tầng trữ nước.
“Cách tiếp cận này không chỉ chống ngập hiệu quả mà còn mang lại lợi ích như cải thiện vi khí hậu, gia tăng mảng xanh, nâng cao giá trị bất động sản và tạo không gian cộng đồng đáng sống, góp phần xây dựng đô thị bền vững trước biến đổi khí hậu”, nhóm chuyên gia nhấn mạnh.
Vân Phong