Căng thẳng Mỹ - Trung: Xuất khẩu khoáng sản và khuyến nghị từ chuyên gia pháp lý

Căng thẳng Mỹ - Trung: Xuất khẩu khoáng sản và khuyến nghị từ chuyên gia pháp lý
8 giờ trướcBài gốc
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung – Cơ hội hay Thách thức dành cho các doanh nghiệp khai khoáng Việt Nam và khuyến nghị từ Luật sư
Việt Nam là quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng và phong phú, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hoạt động khai thác và xuất khẩu khoáng sản hiện vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm yêu cầu quản lý bền vững, tuân thủ quy định pháp luật và tác động từ tình hình thương mại quốc tế. Hiện nay, khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung có dấu hiệu leo thang, rất nhiều chuyên gia đều cho rằng đây chính là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp khai thác và xuất khẩu khoáng sản của Việt Nam. Tuy nhiên, để thực sự tận dụng được cơ hội này, các doanh nghiệp khai khoáng Việt Nam cần phải hiểu rõ hệ thống chính sách, quy định pháp lý hiện hành cũng như quá trình áp dụng vào thực tiễn để từ đó có giải pháp, chiến lược đầu tư, khai thác, xuất khẩu khoáng sản phù hợp và hiệu quả.
Qua bài viết “Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung – Cơ hội hay Thách thức dành cho các doanh nghiệp khai khoáng Việt Nam và khuyến nghị từ Luật sư” này, Công ty Luật TNHH Toàn cầu ATA (“ATA”) mong muốn đem tới cho Quý Khách hàng và Quý độc giả một góc nhìn toàn diện về hiện trạng pháp lý và thực tiễn hoạt động xuất khẩu khoáng sản của Việt Nam, từ đó khuyến nghị những phương hướng, giải pháp cần phải quan tâm, giải quyết để thúc đẩy, tăng cường hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp khai khoáng tại Việt Nam, tận dụng tốt những cơ hội từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sắp tới.
1. Chiến lược quản lý, khai thác và xuất khẩu khoáng sản của Việt Nam
Ngày 01/4/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 334/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (“Chiến lược”). Theo đó, Chính phủ xác định tài nguyên địa chất và khoáng sản vừa là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa là nguồn dự trữ lâu dài của quốc gia cần phải được quản lý tập trung và chặt chẽ;
Chiến lược nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp chặt chẽ giữa khai thác và chế biến khoáng sản nhằm tạo sản phẩm có giá trị kinh tế cao, thay vì chỉ xuất khẩu thô, đòi hỏi doanh nghiệp tiếp cận, đầu tư công nghệ nhằm tối ưu quá trình chế biến, nâng cao giá trị về kinh tế và chất lượng. Bên cạnh đó, Chiến lược cũng đặt ra yêu cầu về việc doanh nghiệp phải sử dụng các thiết bị khai thác tiên tiến, thân thiện với môi trường nhằm hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến hệ sinh thái, giảm thiểu ô nhiễm đất, nước, không khí, đồng thời đảm bảo khai thác khoáng sản một cách bền vững, hiệu quả trong thời gian dài.
Chiến lược cũng yêu cầu “sử dụng khoáng sản phải đảm bảo cân đối, hài hòa”, trước hết đảm bảo nhu cầu sử dụng trong nước, sau cân đối hiệu quả đầu tư khai thác, chế biến khoáng sản xuất khẩu, đạt hiệu quả kinh tế, tránh xuất khẩu tràn lan, gây thiệt hại cho nền kinh tế và ảnh hưởng đến công tác quản lý tài nguyên môi trường của quốc gia.
Do đó, có thể thấy quyết định của Thủ tướng Chính phủ đã tạo dựng cơ bản các cơ sở pháp lý quan trọng để phát triển lĩnh vực khoáng sản tại Việt Nam.
2.Điều kiện xuất khẩu khoáng sản tại Việt Nam
Hoạt động kinh doanh, xuất khẩu khoáng sản tại Việt Nam chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật rất chặt chẽ, cụ thể:
1. a) Căn cứ quy định tại Điều 7 và Phụ lục III Nghị định 69/2018/NĐ-CP, khoáng sản thuộc danh mục hàng hóa xuất khẩu có điều kiện và chịu sự quản lý của Bộ Công thương. Theo đó, để thực hiện hoạt động xuất khẩu, ngoài việc đáp ứng điều kiện về giấy phép xuất khẩu, khoáng sản phải thuộc danh mục chủng loại và đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng do Bộ Công thương ban hành.
2. b) Căn cứ Thông tư 23/2021/TT-BCT (sửa đổi bổ sung tại Thông tư 45/2023/TT-BCT), khoáng sản xuất khẩu phải đáp ứng các quy định:
Về nguồn gốc hợp pháp: Theo Điều 14 Nghị định 17/2020/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh, theo đó, thương nhận chỉ được kinh doanh khoáng sản có nguồn gốc hợp pháp. Khoáng sản có nguồn gốc hợp pháp là khoáng sản có nguồn gốc, xuất xứ thuộc một trong các trường hợp sau:
Được khai thác hoặc khai thác tận thu từ các mỏ, điểm mỏ, bãi thải trong thời hạn Giấy phép khai thác, Giấy phép khai thác tận thu do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp còn hiệu lực;
Khoáng sản được nhập khẩu theo Tờ khai hàng hóa nhập khẩu có xác nhận của Hải quan cửa khẩu;
Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tịch thu và phát mại.
Về quy trình chế biến: Khoáng sản xuất khẩu phải qua quá trình chế biến bằng một hoặc nhiều phương pháp như chọn tay, rửa, nghiền-sàng phân loại theo cỡ hạt; nung, sấy, cưa, cắt, tuyển trọng lực, tuyển từ, tuyển điện, hóa tuyển, thủy luyện; luyện kim hoặc phương pháp khác. Quá trình này làm thay đổi hình thái, tính chất của khoáng sản nguyên khai, tạo ra sản phẩm có giá trị thương mại và có giá trị sử dụng cao hơn, bao gồm quặng tinh, kim lại, hợp kim, hợp chất hóa học, khoáng chất công nghiệp đạt tiêu chuẩn quy định.
Về danh mục khoáng sản xuất khẩu: đối với khoáng sản xuất khẩu có nguồn gốc trong nước phải thuộc Danh mục chủng loại và tiêu chuẩn chất lượng quy định tại Phụ lục 1 Thông tư 23/2021/TT-BCT. Hiện nay, danh mục này tập trung vào các nhóm khoáng sản như sau:
Quặng titan thường được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp: sơn, nhựa, giấy, hàng không vũ trụ, hóa chất, vũ khí, gốm sứ, vật liệu chịu lửa;
Quặng bismut thường được sử dụng để chế tạo nam châm vĩnh cửu công suất lớn, hợp kim nhiệt độ chảy thấp dùng trong thiết bị an toàn phòng chống cháy nổ, hợp kim đặc biệt trong công nghiệp hàng không và ô tô, vật liệu kết cấu và tải nhiệt trong lò phản ứng hạt nhân, chất xúc tác dầu mỏ, men gốm sứ, vật liệu điện tử, các chi tiết trong thiết bị chế biến thực phẩm và y tế, dược phẩm và mỹ phẩm);
Quặng niken thường được sử dụng để sản xuất thép không gỉ, siêu hợp kim, mạ kim, pin sạc…);
Quặng flourit được dùng làm đá quý (hồng ngọc, lục bảo…) có thể làm trang sức);
Quặng graphit sử dụng làm nhiên liệu;
Quặng diatomit là nhiên liệu trong ngành xi măng, gang thép, phân bón;
Đá hoa trắng được ứng dụng trong hoạt động xây dựng;
Bột mica là nguyên liệu trong hoạt động công nghiệp sản xuất sơn.
Đối với khoáng sản làm vật liệu xây dựng: Xuất khẩu các loại khoáng sản này phải đáp ứng danh mục, quy cách và chỉ tiêu kỹ thuật theo quy định tại Phụ lục I của Thông tư 04/2021/TT-BCT.
Như vậy, có thể thấy, hiện nay, Việt Nam không cho phép xuất khẩu khoáng sản thô, đồng thời, danh mục khoáng sản được phép xuất khẩu khá hạn chế và bị kiểm soát chặt chẽ. Đặc biệt, đối với những loại khoáng sản được xác định là quý hiếm như urani, cobalt, berili hoặc những loại khoáng sản đang trong tình trạng khan hiếm, thiếu hụt như đồng, vàng, thiếc – wolfram đều không được đưa vào danh mục được phép xuất khẩu nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên quốc gia.
Thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã thống kê một số hành vi gian lận của các doanh nghiệp khoáng sản nhằm xuất khẩu ra nước ngoài[1], cụ thể như: (+) hành vi làm giả, sửa chữa, sử dụng, quay vòng chứng từ, hóa đơn mua bán, hợp đồng mua bán khoáng sản để xuất khẩu khoáng sản không có nguồn gốc rõ ràng hoặc được khai thác từ các mỏ chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp phép; (+) hành vi khai báo sai số lượng, tên hàng, chủng loại, mã số hàng hóa nhằm mục đích gian lận về thuế, chính sách quản lý, xuất khẩu khoáng sản không đáp ứng quy cách, tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định do Bộ Công thương ban hành; (+) hành vi sử dụng văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh hướng dẫn các nội dung liên quan đến thăm dò, đánh giá trữ lượng,… không có nội dung hướng dẫn, cho phép khai thác, thu hồi theo quy định pháp luật về khoáng sản để xuất khẩu khoáng sản không đúng quy định.
Theo đó, tình hình khai thác, buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép khoáng sản trên các tuyến, địa bàn, vùng biển trọng điểm vẫn diễn biến phức tạp, gây thất thu ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Cùng với việc nhận diện các hành vi gian lận trong xuất khẩu khoáng sản, Tổng cục Hải quan cũng đã hướng dẫn các đơn vị hải quan việc điều tra, xác minh, xử lý vi phạm trong hoạt động xuất khẩu khoáng sản. Thêm vào đó, căn cứ Điều 5 Thông tư 23/2021/TT-BCT (sửa đổi bổ sung tại Thông tư 45/2023/TT-BCT) quy định về nghĩa vụ báo cáo định kỳ hoặc yêu cầu của thương nhân đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hoạt động thực hiện xuất khẩu khoáng sản.
Trong thời gian tới, nếu nguồn cung từ Trung Quốc giảm xuống, nhu cầu của các quốc gia đối với khoáng sản sẽ ngày một tăng cao, tức là nhu cầu xuất khẩu khoáng sản của các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ tiếp tục tăng cao. Do vậy, chắc chắn rằng, các hành vi vi phạm trong khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản cũng sẽ theo xu hướng gia tăng kéo theo nhiều hệ lụy về tài nguyên môi trường.
Chính vì vậy, các cơ quan quản lý chắc chắn sẽ hết sức thận trọng và có biện pháp quản lý chặt chẽ nhằm ngăn chặn và giảm thiểu vi phạm. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cần ý thức được để có sự chuẩn bị đầy đủ, không rơi vào tình thế bị động hoặc rủi ro.
1. Tác động đến thị trường khoáng sản toàn cầu
Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tác động lớn đến thị trường khoáng sản quốc tế. Theo nhiều kênh báo chí, truyền thanh, truyền hình đưa tin về việc Mỹ tuyên bố tăng mức áp thuế đối với toàn bộ hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc lên 10%, trong đó có khoáng sản, đã khiến có hành vi “trã đũa” bằng cách áp thuế lên tới 15% nhiều mặt hàng nhập khẩu vào Trung Quốc từ Mỹ, đồng thời siết chặt kiểm soát hàng hóa khoáng sản xuất khẩu quan trọng như vonfram, tellurium, ruthenium và molypden – những nguyên liệu thiết yếu cho ngành công nghiệp công nghệ cao của Mỹ.
2. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
Việc Mỹ tăng thuế cho hàng hóa Trung Quốc và việc Trung Quốc siết chặt xuất khẩu khoáng sản đương nhiên sẽ làm giảm kim ngạch xuất – nhập khẩu giữa 2 quốc gia. Mỹ và các quốc gia đồng minh có thể chuyển hướng nhập khoáng sản từ các nước khác, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, để có thể khai thác, chế biến khoáng sản đủ điều kiện để xuất khẩu sang Mỹ, các doanh nghiệp cần đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về nguồn gốc khoáng sản, công nghệ khai thác và chế biến theo quy định của Việt Nam.
Tuy vậy, cần phải nhận thức rằng những khoáng sản mà Trung Quốc siết chặt xuất khẩu cũng đồng thời là những loại khoáng sản được xác định thuộc dạng hiếm hoặc đang bị thiếu hụt của Việt Nam, nhiều trong số đó hiện không được đưa vào danh mục khoáng sản được phép xuất khẩu. Do vậy, nếu các doanh nghiệp của Mỹ hoặc quốc gia khác mong muốn chủ động được nguồn nguyên vật liệu đầu vào thì cần phải tìm phương án đầu tư phù hợp. Cụ thể, thay vì nhập khẩu khoáng sản từ Việt Nam, doanh nghiệp, nhà đầu tư Mỹ nên nghiên cứu phương án rót vốn đầu tư trực tiếp để thành lập doanh nghiệp hoặc triển khai các dự án sản xuất các sản phẩm dưới dạng thành phẩm, bán thành phẩm với nguyên vật liệu là những loại khoáng sản không được phép xuất khẩu.
Một trong những dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này thời gian gần đây là sự “bắt tay” giữa Tập đoàn Hưng Hải (Việt Nam) và Trident Global Holdings (Hàn Quốc) vào tháng 05/2024 để khai thác các mỏ đất hiếm tại tỉnh Lai Châu. Đến tháng 8/2024, liên minh này tiếp tục thu hút Zoetic Global (Mỹ) – một doanh nghiệp chuyên cung cấp các giải pháp về năng lượng tái tạo tham gia, nhằm áp dụng công nghệ thân thiện, giảm lượng khí thải carbon ra môi trường và tối đa hóa hiệu quả khai thác và sản xuất đất hiếm tại Việt Nam.[1]
Ngoài ra, trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 9/2023 của cựu Tổng thống Mỹ Joe Biden, hai nước đã ký kết một Thỏa thuận về chất bán dẫn và khoáng chất hiếm[2]. Theo một số nhận định, đây là một phần mong muốn của Hoa Kỳ về việc có các chuỗi cung ứng độc lập với Trung Quốc. Thêm vào đó, ngày 24/01/2024 tại sự kiện do Phòng Thương mại Mỹ tổ chức, thứ trưởng ngoại giao Mỹ một lần nữa nhấn mạnh Thỏa thuận ghi nhớ giữa Việt Nam và Mỹ về chất bán dẫn và cơ hội về đất hiếm, tiềm năng, cơ hội và sự tập trung vào Việt Nam[3].
Dựa vào nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, Việt Nam đang nhận được nhiều sự “quan tâm”, hợp tác từ nhiều quốc gia phát triển trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ. Đặc biệt, tác động từ cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã mở ra cho doanh nghiệp Việt Nam nhiều sự tiếp cận và làm chủ công nghệ trong lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản. Thêm vào đó, sự “dịch chuyển” đầu tư từ Trung Quốc về Việt Nam cũng là cơ hội đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đầu tư chế biến khoáng sản.
Trước tình hình Trung Quốc siết chặt xuất khẩu các khoáng sản quan trọng, trong xu thế Việt Nam nhận được nhiều sự “quan tâm đặc biệt” về lĩnh vực khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản, các doanh nghiệp khai khoáng càng phải ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn về việc tuân thủ pháp luật, song song với việc nắm bắt những cơ hội đến từ thị trường quốc tế và tận dụng những chính sách, đường hướng phát triển thị trường của Việt Nam.
Dưới đây là những khuyến nghị của Luật sư với mong muốn các doanh nghiệp khai khoáng có thể nâng cao hiệu quả hoạt động và đạt được những thành tựu phát triển vững chắc trên thị trường khai thác và xuất khẩu khoáng sản:
1. Tuân thủ pháp luật:
Một trong những điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp khai khoáng có thể xuất khẩu được khoáng sản, đó là: Giấy phép khai thác khoáng sản của đơn vị khai thác phải hợp lệ và còn thời hạn. Theo đó, đơn vị khai thác phải bảo đảm việc đáp ứng các điều kiện trong quá trình khai thác, không bị tước quyền sử dụng giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động do hành vi vi phạm trong quá trình khai thác khoáng sản.
Để đạt được điều kiện này, không còn cách nào khác, doanh nghiệp khai khoáng cần nâng cao ý thức tuân thủ quy định pháp luật, bao gồm quy định pháp luật xuất khẩu khoáng sản tại Việt Nam; các Hiệp định, Thỏa thuận quốc tế ký kết giữa Việt Nam và quốc gia nhập khẩu. Hiện nay, các quy định pháp luật về hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản rất chặt chẽ, phức tạp. Do đó, doanh nghiệp khai khoáng không chỉ phải có đội ngũ kỹ thuật tài giỏi, dày dặn kinh nghiệm mà còn phải phát triển, duy trì đội ngũ cán bộ pháp lý am hiểu sâu sắc hệ thống pháp luật để có những tư vấn, khuyến nghị phù hợp, giảm thiểu nguy cơ rủi ro pháp lý.
2. Sử dụng công nghệ tiên tiến:
Như đã đề cập ở phần trên, Chiến lược có nội dung yêu cầu các doanh nghiệp khai khoáng phải trang bị và sử dụng các công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường hướng tới việc khai thác khoáng sản một cách bền vững, hiệu quả trong thời gian dài.
Do vậy, bên cạnh việc tuân thủ pháp luật, bảo đảm thực hiện đầy đủ các cam kết về bảo vệ môi trường trong quá trình khai thác và chế biến khoáng sản, các doanh nghiệp khai khoáng cần nhanh chóng tiếp cận để áp dụng mới hoặc nâng cấp công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản tiên tiến. Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp nâng cấp giá trị khoáng sản, từ đó tăng cường hiệu quả kinh doanh mà về lâu về dài còn là một trong những điều kiện quan trọng, bắt buộc để có thể duy trì hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam.
3. Chuẩn bị và lưu trữ hồ sơ pháp lý đầy đủ, chặt chẽ:
Theo quy định, khoáng sản chỉ được xuất khẩu khi có nguồn gốc hợp pháp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải lưu ý chuẩn bị và lưu trữ đầy đủ hồ sơ pháp lý tương ứng với toàn bộ quá trình từ khai thác, chế biến và vận chuyển khoáng sản để có thể trình cấp có thẩm quyền kiểm tra khi muốn xuất khẩu khoáng sản.
Trong trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản không phải là đơn vị trực tiếp khai thác khoáng sản, doanh nghiệp này khi ký hợp đồng thu mua khoáng sản cần phải kiểm tra, đánh giá các hồ sơ thể hiện quyền và năng lực khai thác của đơn vị cung cấp khoáng sản cho mình như: hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp khai thác; hồ sơ pháp lý của dự án khai thác khoáng sản; giấy phép khai thác khoáng sản…. Bên cạnh đó, tại hợp đồng mua bán khoáng sản, doanh nghiệp xuất khẩu khoáng sản cần bổ sung các điều kiện ràng buộc đối với bên cung cấp về trách nhiệm đối với nguồn gốc của khoáng sản và nghĩa vụ phối hợp với doanh nghiệp xuất khẩu trong quá trình triển khai các thủ tục, công việc liên quan cho đến khi khoáng sản chính thức được phép xuất khẩu.
Để hạn chế rủi ro cho mình, doanh nghiệp xuất khẩu nên sử dụng hình thức thanh toán bằng L/C – thư tín dụng để ràng buộc trách nhiệm của cả bên bán/mua khoáng sản.
4. Tận dụng các cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài:
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung chắc chắn sẽ khiến một số loại khoáng sản quý hiếm trở nên đặc biệt thu hút đối với Mỹ và các nước đồng minh. Việt Nam cũng là một quốc gia được đánh giá có nhiều loại khoáng sản quý hiếm với trữ lượng lớn. Tuy nhiên, trong danh mục được phép xuất khẩu của Việt Nam hầu như không có sự xuất hiện của các loại khoáng sản này. Vì vậy, các doanh nghiệp có thể tận dụng cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài vào chính doanh nghiệp hoặc những dự án thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản công nghệ cao và/hoặc những dự án sản xuất các sản phẩm công nghệ cao có sử dụng nguyên vật liệu từ khoáng sản quý hiếm tại Việt Nam. Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp có thu hút được vốn đầu tư, nâng cao vị thế mà còn góp phần giúp Việt Nam dần trở thành một mắt xích quan trọng trong quy trình sản xuất, kinh doanh hàng hóa công nghệ cao từ Mỹ và các nước phát triển.
Tuy nhiên, để tận dụng được các cơ hội này, các doanh nghiệp khai khoáng cần có sự chuẩn bị kỹ càng và thay đổi hoàn toàn cả trong tư duy quản trị, điều hành lẫn công nghệ, kỹ thuật nghiệp vụ. Theo đó, việc áp dụng và thực hiện tốt 3 khuyến nghị nêu trên sẽ là điều kiện tiên quyết để các nhà đầu tư nước ngoài cân nhắc và quyết định triển khai hoạt động đầu tư đối với các doanh nghiệp và dự án trong lĩnh vực khai khoáng tại Việt Nam.
Nội dung: Luật sư Nguyễn Thị Ngọc Anh
Đồ họa: H.A
(Tiêu đề bài viết đã được Tạp chí thay đổi)
Thông tin tham khảo:
[1]https://vneconomy.vn/nhan-dien-cac-hanh-vi-gian-lan-trong-xuat-khau-khoang-san.htm
[2]2 nhà đầu tư Mỹ và Hàn Quốc bắt tay doanh nghiệp Việt khai thác kho báu top 2 thế giới tại Việt Nam
[3]Tờ thông tin Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố nâng tầm quan hệ Hoa Kỳ-Việt Nam lên Đối tác Chiến lược Toàn diện - Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Việt Nam
[4]Việt Nam - Mỹ xúc tiến hợp tác về chất bán dẫn, đất hiếm
Nguồn Kinh tế Môi trường : https://kinhtemoitruong.vn/cang-thang-my-trung-xuat-khau-khoang-san-va-khuyen-nghi-tu-chuyen-gia-phap-ly-96853.html