Phóng viên TTXVN thực hiện chùm 3 bài sẽ lần lượt nhìn lại hệ thống thủy điện từ tư duy phát triển đến các công cụ vận hành; góc nhìn chuyên sâu từ chuyên gia về hiệu quả vận hành, những hạn chế hiện hữu và các giải pháp vận hành tối ưu nguồn thủy điện, bảo đảm an toàn hồ đập trong biến đổi khí hậu cực đoan hiện nay; đồng thời chuẩn bị cho tương lai thông qua thủy điện tích năng và hệ thống quản trị rủi ro.
Nam Đà và nhiều xã ven sông Krông Nô, tỉnh Lâm Đồng vừa trải qua trận lũ lịch sử. Ảnh: TTXVN phát
Bài 1: Từ tư duy đến công cụ vận hành
Các trận lũ lịch sử tại miền Trung và Tây Nguyên vừa qua đã phơi bày những hạn chế nghiêm trọng của hệ thống thủy điện Việt Nam, đặc biệt ở các hồ nhỏ và vừa. Trong bối cảnh địa hình miền núi, lưu vực ngắn và tốc độ dòng chảy nhanh, các hồ thủy điện thường phải phản ứng tức thời với mưa lũ, trong khi công cụ vận hành và dữ liệu hỗ trợ còn thiếu. Điều này dẫn đến nguy cơ xả lũ đột ngột, ảnh hưởng trực tiếp đến hạ du và gây thiệt hại về người và của.
Việt Nam có địa hình nhiều sông ngòi và đồi núi, đã phát triển hệ thống thủy điện từ nhiều thập kỷ qua, với tổng công suất hiện nay gần đạt giới hạn khai thác.
Tại phiên thảo luận của Quốc hội ngày 28/11, đại biểu Trịnh Xuân An (Đoàn tỉnh Đồng Nai) nhấn mạnh yêu cầu rà soát toàn diện các thủy điện nhỏ và quy trình xả lũ, nhằm tránh tình trạng “quy trình đúng nhưng hậu quả nặng nề”.
Số liệu từ Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO) - Bộ Công Thương đã cho thấy áp lực chưa từng có lên hệ thống: Ngày 20/11, có tới 93/122 hồ trên cả nước phải xả điều tiết, đẩy tổng công suất xả lên hơn 16.400 MW, tương đương 84% tổng công suất thủy điện toàn hệ thống.
Điển hình là hồ Sông Ba Hạ, trong chỉ 48 giờ phải tiếp nhận gần 2 tỷ m³ nước - gấp hàng chục lần dung tích hữu ích của hồ. Trong điều kiện đó, việc xả lũ không còn là lựa chọn mà là giải pháp duy nhất để bảo đảm an toàn đập.
Hồ Dầu Tiếng xả nước đợt 8, từ lúc 7 giờ ngày 25/11 đến 7 giờ ngày 2/12/2025, với lưu lượng xả linh hoạt từ 36 - 200 m3/s. Ảnh: Thanh Tân/TTXVN
Điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là dung tích phòng lũ cạn kiệt vào giai đoạn cuối mùa mưa, đây là thời điểm các hồ đã tích đầy nước để chuẩn bị cho mùa khô. Quy trình vận hành được xây dựng dựa trên các giá trị thống kê nhiều năm trở nên lỗi thời trước các trận mưa vượt “đỉnh lịch sử”.
Đại biểu Trịnh Xuân An nhấn mạnh, quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành và quy hoạch địa phương cần được thiết kế theo tư duy quản trị rủi ro mới, sử dụng dữ liệu cực đoan mới nhất để xây dựng cấu trúc phòng thủ, thay vì chỉ dựa vào các mô hình thống kê truyền thống.
Chuyên gia thủy lợi Nguyễn Tài Sơn phân tích, đặc thù địa hình miền Trung - Tây Nguyên hẹp, dốc và lưu vực ngắn khiến khả năng xây dựng hồ chứa lớn gần như không khả thi. Lũ đổ xuống nhanh, trong khi năng lực cắt lũ của hồ chứa chỉ ở mức hạn chế. Điều này có nghĩa là càng nhiều thủy điện nhỏ, rủi ro bị “dồn lũ” càng cao và các hồ nhỏ không thể gánh nổi áp lực, buộc phải xả theo phản ứng tức thời
Một bất cập khác là việc phân cấp vận hành: Bộ Nông nghiệp và Môi trường trực tiếp vận hành 4 hồ thủy lợi lớn, Bộ Công Thương tư vấn vận hành khoảng 30 hồ thủy điện lớn, còn hàng trăm hồ nhỏ được giao cho UBND tỉnh quyết định.
Nhiều địa phương thiếu bộ phận kỹ thuật chuyên trách và công cụ mô phỏng hiện đại, dẫn đến việc thiếu dữ liệu và thiếu người có khả năng phân tích dữ liệu.
Áp lực phát điện khiến nhiều hồ không muốn xả nước sớm để tạo dung tích đón lũ, lo thiếu nước cho sản lượng điện. GS-TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Hội Đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam cảnh báo: “Không thể chỉ ‘nhìn trời nhìn đất’ rồi ra quyết định vận hành”.
Hệ thống cảnh báo hiện nay vẫn rời rạc, thiếu kênh thông tin thống nhất từ trung ương xuống thôn xóm. Những câu hỏi quan trọng nhất - lũ về khi nào, lưu lượng bao nhiêu, nếu xả thì hạ du sẽ ngập đến đâu vẫn chưa có câu trả lời mang tính hệ thống.
Cây trồng bị ngập sâu trong nước do ảnh hưởng thủy điện Đồng Nai 5 xả lũ. Ảnh: K GƯỈH/TTXVN
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà trong cuộc họp ứng phó bão số 15 đã yêu cầu rà soát trách nhiệm chủ hồ, quy trình liên hồ và đặc biệt là trách nhiệm truyền thông cảnh báo.
Những trận lũ vừa qua cũng cho thấy sự lệ thuộc vào các quy trình cũ có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường. Khi dung tích hồ hết, các chủ đầu tư vẫn ưu tiên hiệu quả phát điện, chần chừ hạ mực nước đón lũ, tạo ra tình huống “nguy hiểm kép”: nước lũ ồ ạt đổ về hạ du trong khi hồ không còn khả năng điều tiết. Đây là minh chứng rõ ràng cho việc công trình chỉ là phần vỏ, còn “bộ não” vận hành, bao gồm dữ liệu, mô hình dự báo, phân tích kỹ thuật và trách nhiệm quản lý mới quyết định sự an toàn và hiệu quả của hệ thống thủy điện.
Để thích ứng với khí hậu cực đoan, các chuyên gia đề xuất xây dựng hệ thống quan trắc liên vùng, tích hợp dữ liệu lưu lượng, mưa, dung tích hồ và mô hình toán thủy văn, vận hành như một “bộ não kỹ thuật” có khả năng hỗ trợ ra quyết định. Việc này đồng nghĩa với việc chuyển từ quản lý thủy điện đơn lẻ sang quản trị rủi ro đồng bộ, bao gồm cả yếu tố môi trường, rừng phòng hộ, an ninh nguồn nước và đặc biệt là an toàn dân sinh.
Bài học từ mùa lũ năm nay cho thấy, nếu không xây dựng được hệ thống chỉ huy đủ mạnh, mọi quy trình dù đúng vẫn có thể dẫn đến những hậu quả không thể chấp nhận. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về đầu tư công nghệ, nâng cao năng lực chuyên môn và minh bạch trong quản lý vận hành, đặc biệt với các hồ nhỏ chiếm phần lớn số lượng trong hệ thống thủy điện Việt Nam.
Bài 2: Góc nhìn chuyên gia sau mùa lũ cực đoan
Văn Giáp (TTXVN)