Chạm vào ký ức thời gian

Chạm vào ký ức thời gian
5 giờ trướcBài gốc
Mấy chục năm trước, trong gian bếp mỗi nhà thường có một chiếc tủ nhỏ để đựng chén bát, nồi niêu và cả phần thức ăn còn lại. Người quê gọi là cái chạn, còn người thành thị thời ấy gọi theo tiếng Tây là “gác-măng-giê”.
Tuổi thơ sống ở quê, mỗi lần đi học hay đi chơi về, việc đầu tiên của tôi là chạy ngay xuống bếp, mở cánh cửa chạn xem ông bà, cha mẹ có để phần gì cho mình không, khi thì bát khoai luộc, khi thì miếng bánh sắn, hoặc sau này là bát mì sợi nấu đơn sơ. Cái chạn, với lũ trẻ chúng tôi là “kho báu” của tuổi thơ, nơi cất giữ những niềm vui giản dị, hạnh phúc ngọt ngào từ bàn tay người lớn. Tôi vẫn nhớ lũ chó con hay con mèo mướp tinh nghịch mỗi khi thấy chủ đi học về là mừng rỡ đón từ lũy tre đầu ngõ. Chúng quấn quýt chạy theo, rồi rối rít đưa tôi vào bếp, vừa kêu, vừa quẫy đuôi như giục giã: “Cậu chủ hãy mở chạn đi, có đồ ăn ngon lắm!”. Khi tôi hé cửa, mùi thơm của khoai, của bánh sắn lan ra ấm áp. Tôi lại chia cho chúng một ít.
Tác giả với chạn bát ở Hà Nội xưa.
Những năm tháng khó khăn ấy, cái chạn chủ yếu chỉ đựng vài cái niêu đất, nồi gang thô kệch, rổ rá, vài cái chĩnh nhỏ đựng mắm cáy, dưa cà, hũ muối hột hay chai nước mắm. Ngăn đựng thức ăn khi ấy thật nghèo nàn: Chỉ có bát muối hột, đôi khi là niêu tép rang muối. Tết đến mới có thẩu sườn băm nát cả xương rang mặn - món “xa xỉ” nhất của năm. Nhà khá lắm thì có lọ bột ngọt nhỏ xíu, hay liễn mỡ heo.
Bữa cơm ngày ấy đạm bạc: Rau vườn luộc, canh, đôi khi có thêm con cua, con hến hay con cá đồng bắt được trong lúc làm ruộng. Món xào hiếm hoi lắm, vì chẳng có dầu mỡ như bây giờ. Bởi vậy, chạn cũng chẳng có nhiều thức ăn dư để lại cho bữa sau như chức năng của nó. Chạn bát vừa là nơi cất đồ lỉnh kỉnh thời nghèo khó và là biểu tượng của sự chắt chiu, tảo tần. Nói theo hình ảnh thì giống như người mẹ nghèo ở góc bếp đùm đắp cho sự êm ấm của mái nhà. Ở thành phố, gác-măng-giê được đóng bằng gỗ chắc chắn, có ngăn vách, bọc lưới ngăn ruồi muỗi, chân kê bát nước chống kiến, còn chạn ở quê làm bằng tre nứa mộc mạc. Qua năm tháng, nó xiêu vẹo, xộc xệch nhưng chẳng ai nỡ bỏ. Trong góc bếp ám khói đen kịt, chạn bát là người bạn thân thiết của những người phụ nữ tảo tần, lụi cụi sớm hôm.
Với lũ trẻ như tôi, gầm chạn là một thế giới đầy bí ẩn: Chỗ trú ngụ của mèo mướp nằm sưởi ấm mùa đông, nơi mấy con vàng nằm gác mõm chờ bữa ăn và cũng là nơi tôi hay rón rén mở cánh cửa tre kẽo kẹt để tìm chút gì lót dạ. Tôi nhớ mãi quãng thời gian gia đình chuyển đến một xóm lao động nghèo. Buổi trưa đi học về, bụng đứa nào cũng đói sôi ùng ục, cặp sách kéo lê trên đường. Chưa kịp đặt cặp xuống, tôi đã lao ngay vào bếp, mở chạn tìm món ăn mà người lớn để dành. Thường là bát chiết yêu đựng cục bột luộc to như nắm tay - thứ “bánh bao nhà nghèo” đặc quánh, không nhân, mùi ngai ngái của bột sắn. Ấy thế mà chúng tôi vẫn ăn ngon lành, chấm nước muối, thấy đời vất vả mà sao ấm áp!
Thời gian trôi đi, khi tủ lạnh và dãy tủ bếp hiện đại xuất hiện trong mỗi gia đình, cái chạn xưa dần lui vào dĩ vãng. Nhưng trong ký ức của bao người, nó vẫn là một góc thương nhớ, một chứng nhân của thời nghèo khó mà đầm ấm yêu thương. Ở nhiều vùng miền núi, nơi đời sống còn thiếu thốn, cái chạn tre vẫn hiện diện như một người bạn cần mẫn, gìn giữ thói quen xưa cũ.
Mỗi khi nhớ về chạn bát, lòng tôi lại dâng lên niềm xốn xang - những cảm xúc trong veo của một thời tuổi nhỏ, nơi chỉ cần mở cánh cửa tre kẽo kẹt là cả bầu trời ký ức, cả mùi khói bếp và tiếng gọi của mẹ lại ùa về...
DƯƠNG MY ANH
Nguồn Khánh Hòa : http://www.baokhanhhoa.vn/van-hoa/sang-tac/202511/cham-vao-ky-uc-thoi-gian-67f14e2/