Thắng lợi của chiến dịch mở ra khả năng hiện thực quân và dân ta hoàn toàn có thể đánh bại quân viễn chinh Mỹ, củng cố niềm tin chiến thắng, cổ vũ khí thế hăng hái quyết tâm đánh Mỹ trên toàn chiến trường, tạo tiền đề cho những trận thắng lớn tiếp theo để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thành công, để lại những bài học sâu sắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) hiện nay.
Thực hiện quyết tâm đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, quân và dân ta trên chiến trường miền Nam đẩy mạnh tiến công, phá rã hàng loạt ấp chiến lược, lập nên những chiến thắng ở Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài... đẩy chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đứng trước nguy cơ phá sản, buộc Mỹ phải chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”; đưa quân Mỹ và quân các nước đồng minh trực tiếp tham chiến ở chiến trường miền Nam, đồng thời gây chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm giành lấy những thắng lợi quyết định. Nhận rõ vị trí chiến lược của Tây Nguyên, Mỹ sớm đưa Sư đoàn 1 kỵ binh không vận lên trấn giữ An Khê nhằm: Ngăn chặn hoạt động của chủ lực Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, chia cắt Tây Nguyên với vùng đồng bằng ven biển miền Trung, cắt đứt sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho cách mạng miền Nam qua hệ thống Đường Hồ Chí Minh và từ Lào sang.
Trung đoàn 66-Đoàn Plei Me (Sư đoàn 10, Quân đoàn 30) diễn tập. Ảnh: Anh Thương
Thực hiện chủ trương động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền Nam, Bắc nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, chủ động tiến công phủ đầu và giành thắng lợi ngay khi quân Mỹ vừa đặt chân vào chiến trường miền Nam của Trung ương Đảng; sau thời gian chuẩn bị, tháng 10-1965, Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) tiến hành Chiến dịch Plei Me, do Thiếu tướng Chu Huy Mân làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, với quyết tâm: “Sẵn sàng diệt quân Mỹ, quyết đánh thắng trận đầu” nhằm tìm ra lời giải: “Biết đánh Mỹ, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược”(1).
Vào thời điểm tiến hành chiến dịch, quân ngụy đang trên đà suy yếu, quân Mỹ vừa mới đặt chân đến chiến trường Tây Nguyên. Đây là thời cơ thuận lợi để ta thực hiện “Tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ, tiếp tục làm tan rã một bộ phận quân ngụy, đánh bại kế hoạch tiến công mùa khô của chúng, mở rộng vùng đứng chân của ta, làm chủ đại bộ phận rừng núi và nông thôn, nhất là vùng có ý nghĩa chiến lược”(2). Nhưng việc tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ ở thời điểm đó rất khó khăn, nhất là đối với Sư đoàn 1 kỵ binh không vận được trang bị vũ khí hiện đại, có sức cơ động cao, trong khi bộ đội ta chủ yếu được trang bị vũ khí bộ binh.
Dựa vào những kinh nghiệm “đánh điểm, diệt viện” trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Bộ tư lệnh chiến dịch xác định: Chọn một điểm yếu trong hệ thống phòng ngự của quân ngụy để vây ép, buộc chủ lực ngụy phải rời hậu cứ đi cứu viện. Khi chủ lực ngụy đi cứu viện, ta phải đánh đòn tiêu diệt thật lớn mới kéo quân Mỹ vào tham chiến cứu nguy cho quân ngụy. Đây là biện pháp tối ưu để tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ. Như vậy, “đánh điểm, diệt viện”, đánh địch ngoài công sự là chính đã được Bộ tư lệnh Chiến dịch xác định làm cơ sở thực hiện quyết tâm tiêu diệt một bộ phận quân Mỹ.
Lực lượng tham gia chiến dịch gồm 3 trung đoàn bộ binh (320, 33 và 66), một số đơn vị hỏa lực, công binh, hậu cần và bộ đội địa phương tỉnh Gia Lai, Kon Tum (nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi). Tuy nhiên, các trung đoàn bộ binh hầu hết mới cơ động từ miền Bắc vào, chưa quen chiến trường, sức khỏe chưa kịp hồi phục đã phải chiến đấu ngay... Trong điều kiện địch đang chiếm ưu thế nên ta phải có nghệ thuật điều địch đánh theo cách đánh của ta, làm cho chúng mất quyền chủ động trên chiến trường. Do vậy, đồn Plei Me được xác định là mục tiêu vây lấn, buộc quân ngụy phải cơ động theo Đường 21 để chi viện. Khi lực lượng viện binh địch bị ta phục kích trên Đường 21 sẽ buộc quân Mỹ phải bung lực lượng ra cứu viện, khi đó thung lũng Ia Đrăng sẽ là khu vực diệt quân Mỹ...
Đêm 19-10-1965, Chiến dịch Plei Me mở màn, ta diệt đồn Chư Ho, vây ép đồn Plei Me để buộc địch phải đến giải vây. Tiếp tục phát triển thế tiến công, ngày 23-10-1965, ta phục kích diệt Chiến đoàn 3 thiết giáp ngụy quân Sài Gòn đến ứng cứu trên Đường 21, buộc Sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ phải đưa 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn 1 vào tham chiến. Từ ngày 31-10 đến 9-11-1965, địch liên tiếp tiến hành các hoạt động thăm dò, tập kích vào hậu phương chiến dịch và một số khu vực trận địa ta, nhưng đều bị ta kịp thời chặn đánh, đẩy lui. Từ ngày 14-11-1965, Mỹ đưa Lữ đoàn 3 kỵ binh không vận vào chiến đấu và dùng chiến thuật “nhảy cóc” đổ quân xuống khu vực núi Chư Prông định bất ngờ đánh vào sau lưng đội hình ta. Dựa vào trận địa đã chuẩn bị sẵn, từ ngày 14 đến 17-11-1965, ta chặn đánh quyết liệt, dồn quân Mỹ về thung lũng Ia Đrăng, tiến công tiêu diệt gần hết một tiểu đoàn quân Mỹ, hoàn thành thắng lợi trận then chốt chiến dịch. Phát huy kết quả chiến đấu, ta đẩy mạnh tiến công, buộc Lữ đoàn 3 kỵ binh không vận phải rút khỏi Ia Đrăng.
Trải qua 38 ngày đêm chiến đấu (19-10 đến 26-11-1965), với 3 đợt tiến công, ta đánh 17 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 2.974 tên địch; tiêu diệt Tiểu đoàn 2 Lữ đoàn 3 kỵ binh không vận, đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 1 Lữ đoàn 3 kỵ binh không vận Mỹ và 1 tiểu đoàn ngụy, 2 chi đoàn thiết giáp, một chi đoàn xe tăng, phá hủy 88 xe quân sự, bắn rơi và phá hủy 59 máy bay các loại, phá hủy 5 khẩu pháo 105mm...
Thắng lợi của Chiến dịch Plei Me có ý nghĩa to lớn về chính trị, làm hạ uy thế của quân viễn chinh Mỹ; cổ vũ ý chí, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của quân và dân ta. Thắng lợi này làm dấy lên phong trào đánh Mỹ rộng khắp và cách đánh “bám thắt lưng Mỹ mà đánh” được phổ biến trên toàn chiến trường miền Nam. 60 năm đã trôi qua, những bài học thắng lợi từ Chiến dịch Plei Me cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ hiện nay.
Đồng chí Chu Huy Mân (đi đầu), Tư lệnh kiêm Chính ủy trong Chiến dịch Plei Me (năm 1965). Ảnh tư liệu
Thứ nhất, xây dựng ý chí quyết tâm, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ.
Khi quân Mỹ vào tham chiến trên chiến trường miền Nam, không ít cán bộ, chiến sĩ và nhân dân băn khoăn: Liệu ta có đánh thắng được Mỹ không và đánh bằng cách nào? Thậm chí khi bàn cách đánh chiến dịch, đã có ý kiến cho rằng “đánh với quân Mỹ thì chỉ nên đặt mức độ tiêu diệt từng trung đội, đánh thiệt hại nặng từng đại đội”(3) chứ chưa thể tiêu diệt từng đại đội, tiểu đoàn quân Mỹ... Đó là những băn khoăn chung vì chúng ta chưa thực sự hiểu rõ về quân đội Mỹ. Đây là một thực tế diễn ra ở thời điểm đó đòi hỏi phải có giải pháp để khắc phục tâm lý ngại Mỹ, sợ phi pháo Mỹ. Nếu không khắc phục kịp thời tâm lý lo sợ hỏa lực Mỹ thì không thể xây dựng được ý chí quyết tâm và niềm tin thắng Mỹ.
Để giành thế chủ động, ngay từ mùa hè năm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ bắt đầu vào miền Nam, Đảng ta đã có chỉ đạo chiến lược quân sự: “Đánh đau chủ lực ngụy, đồng thời sẵn sàng đánh quân Mỹ”. Ngày 20-7-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”(4).
Đáp lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân hai miền Nam-Bắc dấy lên khí thế quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong xây dựng quyết tâm đánh Mỹ, Thiếu tướng Chu Huy Mân-Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên đã nhấn mạnh: Trước hết phải dám đánh Mỹ và quyết tâm đánh thắng. Cứ đánh khắc tìm ra cách đánh... Kiên quyết đánh thắng trận đầu(5), đồng thời chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nêu cao quyết tâm trận đầu thắng Mỹ... Thực tế diễn biến và kết quả của Chiến dịch Plei Me đã chứng minh nhân tố chính trị tinh thần, quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ đã làm nên thắng lợi của chiến dịch.
Vận dụng kinh nghiệm trên trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ hiện nay, cần tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, ý chí, khát vọng xây dựng đất nước hùng cường. Ý chí quyết tâm của dân tộc phải được thể hiện trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân-nguồn sức mạnh vô địch trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ. Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 43 ngày 24-11-2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, tạo sự đồng thuận, khơi dậy tinh thần yêu nước, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân. Khi nhân dân đồng tình, ý Đảng, lòng dân thông suốt thì mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều trở thành hiện thực, sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc sẽ được phát huy mạnh mẽ, tạo thành sức mạnh nội sinh, khơi thông mọi nguồn lực, tháo gỡ những điểm nghẽn để đất nước phát triển.
Thứ hai, xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân vững mạnh, nòng cốt là bộ đội chủ lực trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ.
Trước khi diễn ra Chiến dịch Plei Me, Bộ Tổng Tư lệnh đã chủ trương xây dựng Tây Nguyên trở thành chiến trường mạnh, trong đó kiện toàn Bộ tư lệnh B3 và cơ quan chỉ huy cấp chiến dịch, tăng cường khối chủ lực tương đương sư đoàn. Lực lượng chủ lực tham gia chiến dịch có 3 trung đoàn và một số đơn vị hỏa lực. Trung đoàn 33 chủ yếu làm nhiệm vụ vây lấn đồn Plei Me, Trung đoàn 320 và Trung đoàn 66 làm nhiệm vụ đánh trận then chốt tiêu diệt chủ lực địch. Về bộ đội địa phương, tỉnh Gia Lai có 1 tiểu đoàn, 3 đại đội, mỗi xã có 1 trung đội du kích tham gia chiến dịch. Tỉnh ủy và Tỉnh đội Gia Lai đã cử nhiều đoàn cán bộ xuống các xã, vùng căn cứ để vận động đồng bào dẫn đường cho bộ đội, đi dân công và huy động vật chất phục vụ chiến dịch, thành lập các trạm xá sẵn sàng đón nhận thương binh, bệnh binh. Nhân dân trong vùng hăng hái đóng góp sức người, sức của với khẩu hiệu “cả nhà đi dân công, cả làng đi dân công”. Thắng lợi của Chiến dịch Plei Me đã chứng tỏ công tác xây dựng, tổ chức lực lượng, hiệp đồng tác chiến chặt chẽ giữa các đơn vị tham gia chiến dịch; đặc biệt là tinh thần chiến đấu gan dạ, dũng cảm của bộ đội trước phi pháo, bom đạn của địch.
Vận dụng bài học kinh nghiệm này vào sự nghiệp xây dựng và BVTQ hiện nay, chúng ta cần quán triệt sâu sắc đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng trong xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trong xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, lấy xây dựng bộ đội chủ lực làm nòng cốt, ưu tiên những đơn vị chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ quan trọng. Chú trọng xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp. Trong điều kiện hiện nay, toàn quân tiếp tục quán triệt Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 230 ngày 2-4-2022 của Quân ủy Trung ương và Kế hoạch số 1228 ngày 25-4-2022 của Bộ Quốc phòng về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo; Kết luận số 159 ngày 29-5-2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án tiếp tục sắp xếp tổ chức quân sự địa phương “tinh, gọn, mạnh” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Cùng với kiện toàn, sắp xếp tổ chức Quân đội, cần tiếp tục điều chỉnh thế bố trí chiến lược của các lực lượng phù hợp với thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, phòng thủ quân khu và “thế trận lòng dân” vững chắc. Toàn quân duy trì nghiêm nền nếp, chế độ trực; theo dõi, quản lý chặt chẽ vùng trời, biển, đảo, biên giới và không gian mạng; triển khai hiệu quả chiến lược quốc gia phòng thủ dân sự. Chủ động lực lượng, phương án đối phó hiệu quả với thách thức an ninh phi truyền thống; dự kiến nhiều tình huống quốc phòng để đối phó thắng lợi với mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thứ ba, không ngừng nghiên cứu, học tập, bổ sung và phát triển nền nghệ thuật quân sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu BVTQ trong tình hình mới.
Trong quá trình chuẩn bị Chiến dịch Plei Me, điều quan trọng nhất là ta phải nắm và hiểu được quân Mỹ, “vì vào thời điểm đó chúng ta rất thiếu thông tin về quân đội Mỹ, cả biên chế tổ chức và nghệ thuật tác chiến”(6). Nhiệm vụ của chiến dịch là phải tìm ra những luận cứ khoa học, những biện pháp mang tính khả thi để hiểu được quân Mỹ. Do vậy “cứ đánh khắc tìm ra cách đánh” đã trở thành phương châm hành động cho công tác chuẩn bị chiến dịch.
Thực tiễn, khi bước vào chiến đấu với Sư đoàn 1 kỵ binh không vận, ta mới thấy uy lực trực thăng vũ trang của chúng. Đặc biệt, ta chưa dự kiến được tình huống địch sẽ sử dụng B-52 chi viện chiến thuật cho bộ binh, pháo binh và có thể đưa pháo vào hậu cứ của ta. Với ưu thế về vũ khí, trang bị hiện đại, quân Mỹ đã thực hành chiến thuật “nhảy cóc” và cơ động từng lữ đoàn đến khu giao chiến trong thời gian ngắn, gây bất lợi cho ta...
Mặc dù dự báo của ta về quân Mỹ chưa đúng và chưa đầy đủ nhưng trong quá trình thực hành chiến dịch, ta đã tổ chức nắm địch, phát hiện kịp thời chỗ mạnh, chỗ yếu để tìm ra cách đánh phù hợp nhằm hạn chế ưu thế của địch, như: Phát động phong trào bắn máy bay trực thăng, đánh gần, đánh đêm và vận dụng nhiều chiến thuật: Vây lấn, phục kích, tập kích, vận động tiến công... Từ bài học này cho thấy việc giáo dục truyền thống, phát huy những kinh nghiệm trong chiến tranh vào sự nghiệp BVTQ trong giai đoạn hiện nay là rất quan trọng.
Để tiếp tục phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quan trọng vào sự nghiệp BVTQ trong giai đoạn hiện nay, toàn quân cần tiếp tục quán triệt và triển khai hiệu quả Nghị quyết 1657 ngày 20-12-2022 của Quân ủy Trung ương về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong tình hình mới, Nghị quyết số 1659 ngày 20-12-2022 về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023-2030 và những năm tiếp theo. Trên cơ sở đó, kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện, đào tạo với nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự, nhất là nghệ thuật chiến tranh nhân dân BVTQ trong điều kiện mới. Trong huấn luyện phải kết hợp yếu tố truyền thống với hiện đại, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, huấn luyện đêm, huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị, nhất là vũ khí, trang bị mới, hiện đại; huấn luyện kết hợp với diễn tập, phòng chống dịch bệnh, thảm họa, thiên tai, môi trường. Cùng với đó, toàn quân tích cực quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 57 ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 3488 ngày 29-1-2025 của Quân ủy Trung ương để tạo bước đột phá về phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong Quân đội. Đặc biệt, cần nghiên cứu, cập nhật nghệ thuật tác chiến phòng không trong các cuộc chiến tranh và xung đột gần đây để đánh giá các loại phương tiện bay không người lái trong trinh sát, tiến công; việc sử dụng các phương tiện, vũ khí chính xác cao trong các cuộc tiến công... nhằm chủ động trong mọi môi trường tác chiến.
Thứ tư, bám sát thực tiễn, đánh giá đúng tình hình, chủ động đối phó thắng lợi mọi tình huống.
Trong thực hành chiến dịch, Bộ tư lệnh chiến dịch luôn chỉ đạo các bộ phận nắm chắc tình hình địch trong từng trận đánh để tìm ra quy luật hoạt động, âm mưu, thủ đoạn của chúng. Ban đầu khi ta vây đồn Plei Me để thực hiện “vây điểm, diệt viện” và đã kéo được quân Mỹ vào tham chiến nhưng chưa diệt gọn được đại đội quân Mỹ. Tuy nhiên, qua trận này ta đã phát hiện quân Mỹ không chỉ có điểm mạnh mà còn bộc lộ nhiều điểm yếu. Mặc dù Sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ có sức cơ động nhanh bằng đường không, nhưng cơ động đường bộ lại là điểm yếu; đổ bộ “nhảy cóc” từng đại đội, nên nếu ta có cách đánh tốt và bám sát, đánh gần thì có thể khai thác chỗ yếu của chúng để diệt gọn từng đơn vị Mỹ. Đây là những nhận định rất quan trọng, được đúc rút từ những lần trực tiếp giao chiến với quân Mỹ. Do vậy, trong đợt 3, ta đã tổ chức được nhiều trận đánh then chốt, tiêu diệt được đại đội, tiểu đoàn quân Mỹ. Đặc biệt, trận đánh ở thung lũng Ia Đrăng đã trở thành nỗi kinh hoàng cho quân Mỹ. Trong hồi ký của mình, chính Westmoreland đã thừa nhận đây là tổn thất nghiêm trọng của Sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ trong trận đầu ra quân ở Tây Nguyên.
Vận dụng kinh nghiệm vào sự nghiệp BVTQ hiện nay, đòi hỏi các cơ quan nghiên cứu chiến lược của Đảng, Nhà nước, Quân đội cần tích cực, chủ động nghiên cứu, dự báo những vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh ở cả trong nước và quốc tế, trên cả lĩnh vực an ninh truyền thống và phi truyền thống; nhận diện rõ đối tác, đối tượng nhằm thêm bạn, bớt thù. Đặc biệt, cần vận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ để nghiên cứu những phương thức, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch; nâng cao năng lực xử lý thông tin, dự báo, tham mưu chiến lược, chủ động nắm chắc tình hình, cung cấp những luận cứ khoa học với Đảng, Nhà nước để tiếp tục hoàn thiện, phát triển chiến lược BVTQ trong tình hình mới.
Chiến dịch Plei Me là chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta khi trực tiếp chiến đấu với Sư đoàn 1 kỵ binh không vận của Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên. Sau chiến thắng này, ta đã giải đáp được một vấn đề cấp bách mà lịch sử đặt ra-như chính người Mỹ đã thừa nhận: “Việt cộng có thể khẳng định rằng họ có thể chiến đấu và chiến thắng các đơn vị kỵ binh Mỹ”(7). 60 năm trôi qua nhưng những bài học kinh nghiệm của chiến dịch vẫn còn nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi cần nghiên cứu và vận dụng phù hợp trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ hiện nay.
-----------------
(1) Bộ Quốc phòng-Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Lịch sử bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên-Quân đoàn 3, Biên niên sự kiện (1964-2014), Nhà xuất bản Công an nhân dân, H, 2015, tr.23.
(2) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Plei Me (năm 1965), H, 1993, tr.24-25.
(3) Chiến dịch tiến công Plây Me (năm 1965), tr.64.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 14, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-sự thật, H, 2011, tr.577.
(5) Lịch sử bộ đội chủ lực Mặt trận Tây Nguyên-Quân đoàn 3, Biên niên sự kiện (1964-2014), tr.23.
(6) Chiến dịch tiến công Plei Me (năm 1965), tr.64.
(7) Joseph L.Galloway, Tin tức Hoa Kỳ, số 29, tháng 10-1990.