Trình bày tóm tắt tờ trình dự án Luật PCMT, Bộ trưởng Bộ Công an Lương Tam Quang cho biết, qua quá trình tổng kết và theo dõi Luật PCMT năm 2021, bên cạnh những kết quả đạt được, đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập. Đồng thời, để bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về cai nghiện ma túy (CNMT) và quản lý sau CNMT được chuyển giao về Bộ Công an, cần phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
Theo Bộ trưởng Lương Tam Quang, dự thảo Luật được giữ nguyên phạm vi điều chỉnh so với Luật PCMT 2021. Nội dung của dự thảo luật bảo đảm tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) liên quan và tương thích, phù hợp với các điều ước quốc tế. Việc xây dựng dự án luật đã thực hiện các trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL.
Dự thảo Luật PCMT (sửa đổi) gồm nội dung cơ bản như: Hoàn thiện các quy định về bổ sung các quy định về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan ma túy để kiểm soát chặt chẽ và tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển kinh tế. Các quy định về thời hạn cai nghiện, quy trình cai nghiện, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, người CNMT tại gia đình, cộng đồng, điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bị quản lý sau CNMT, người đủ 18 tuổi cai nghiện bắt buộc hoặc tự nguyện trong cơ sở cai nghiện bắt buộc, người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi cai nghiện bắt buộc hoặc tự nguyện trong trường giáo dưỡng; bảo đảm sự đồng bộ thống nhất với các quy định pháp luật chuyên ngành khác có liên quan và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay và trong những năm tiếp theo.
Hoàn thiện quy định về chuyển thẩm quyền từ UBND cấp xã sang Công an cấp xã. Sửa đổi, bổ sung quy định để thực hiện phân quyền, phân cấp tại 5 nội dung cho Trưởng Công an cấp xã, Giám đốc Công an cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh để bảo đảm phù hợp mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp và việc chuyển nhiệm vụ quản lý nhà nước về CNMT từ Bộ LĐ-TB&XH (cũ) về Bộ Công an.
Một điểm đáng lưu ý, tại Điều 28 về thời hạn, quy trình CNMT trong dự thảo Luật: Thời hạn CNMT với người CNMT lần đầu là 24 tháng, với người CNMT từ lần thứ hai trở lên là 36 tháng. Theo quy định hiện hành (Luật PCMT 2021 và Nghị định 116/2021/NĐ-CP), thời gian CNMT bắt buộc tại cơ sở cai nghiện công lập 12 - 24 tháng. Với cai nghiện tự nguyện tại cơ sở, thời gian do người nghiện và cơ sở thỏa thuận nhưng không quá 24 tháng.
Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, Ủy ban nhất trí với sự cần thiết sửa đổi Luật. Ủy ban đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo lưu ý việc sửa đổi luật phải bảo đảm hài hòa giữa xử lý nghiêm, kịp thời hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (SDTPCMT) và quyền học tập, tạo cơ hội tái hòa nhập cộng đồng của người SDTPCMT, người nghiện ma túy là trẻ em, học sinh, sinh viên...
Đồng thời nâng cao hiệu quả công tác CNMT, quản lý sau CNMT; hoàn thiện cơ chế phối hợp liên ngành, rõ trách nhiệm của các cơ quan trong công tác PCMT và kiểm soát ma túy; huy động nguồn lực cho công tác PCMT, xây dựng cơ chế phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân, gia đình và cộng đồng trong giám sát, hỗ trợ sau cai nghiện.
Về thời hạn, quy trình CNMT, theo cơ quan chủ trì soạn thảo, việc tăng thời hạn CNMT góp phần nâng cao chất lượng công tác CNMT. Về vấn đề này, đa số ý kiến của Ủy ban tán thành với quy định tăng thời hạn CNMT.
Tuy nhiên, Ủy ban đề nghị cần nghiên cứu quy định phù hợp hơn về thời hạn CNMT, đặc biệt với người CNMT lần đầu, người CNMT là người đang nuôi con nhỏ, trẻ em thì thời hạn nên ngắn hơn hoặc quy định không quá 24 tháng với người cai nghiện lần đầu, không quá 36 tháng với người cai nghiện từ lần thứ hai trở đi.
Có ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định thời hạn CNMT theo hướng với đối tượng CNMT bắt buộc thì thời hạn thực hiện như quy định tại dự thảo Luật; với đối tượng CNMT tự nguyện tại gia đình và cộng đồng cần quy định thời hạn phù hợp.
Về CNMT tự nguyện tại gia đình và cộng đồng, Ủy ban đề nghị tiếp tục nghiên cứu có quy định tại dự thảo Luật bảo đảm tính nguyên tắc và bao quát về điều kiện cơ sở vật chất, nhân lực, giá dịch vụ CNMT, thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong cung cấp dịch vụ CNMT…, đồng thời, cụ thể hóa các quy định này ở các văn bản hướng dẫn.
T. Ký