Tạp chí đã đăng tải bài viết: "Những "đại học trong phố" với không gian học tập, hoạt động chật chội, áp lực lên hạ tầng đô thị". Cùng với đó, là ý kiến từ chính cơ sở giáo dục đại học về việc cần phải di dời. Rõ ràng, việc các trường đại học khỏi khu vực nội đô là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, cần đảm bảo điều kiện của nơi chuyển đến giúp các cơ sở giáo dục đại học phát triển bền vững.
Di dời trường đại học không đơn giản chỉ là chuyển địa điểm
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Đại biểu Quốc hội, Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường cho rằng, sự tập trung dày đặc này gây ra nhiều bất cập đối với chính cơ sở giáo dục lẫn với hạ tầng đô thị.
Về phía nhà trường, quỹ đất eo hẹp khiến nhiều trường không đáp ứng tỷ lệ diện tích đất trên người học theo quy định tại Thông tư 01/2024/TT-BGDĐT về chuẩn cơ sở giáo dục đại học.
Hầu hết các trường không có đủ điều kiện để xây dựng khu thực nghiệm, phòng nghiên cứu hay khu vực sinh hoạt ngoài trời, ảnh hưởng lớn đến chất lượng đào tạo toàn diện.
Không gian chật chội khiến các hoạt động học tập, nghiên cứu, khởi nghiệp, thực hành hay sinh hoạt ngoại khóa của sinh viên đều bị hạn chế. Vì vậy, nhu cầu chuyển dịch đào tạo đại học ra các khu vực có không gian phát triển mới là điều tất yếu.
Đại biểu Quốc hội, Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường. Ảnh: Đình Nam
Về phía thành phố Hà Nội, việc hàng loạt trường đại học cùng tập trung trong nội đô cũng tạo sức ép nặng nề lên hạ tầng. Mật độ dân số, nhu cầu nhà ở, giao thông, dịch vụ đều vượt ngưỡng chịu tải, gây ra tình trạng ùn tắc và quá tải kéo dài.
Do đó, việc di dời các trường đại học ra khỏi khu vực trung tâm là yêu cầu cấp bách, vừa để giảm tải cho đô thị, vừa để mở rộng không gian phát triển của giáo dục đại học.
Dù chủ trương này đã có từ lâu nhưng tiến độ triển khai vẫn còn chậm. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường, nguyên nhân trước tiên là bởi hầu hết các trường đều có lịch sử lâu đời, gắn bó với không gian đô thị trung tâm, mang giá trị truyền thống và văn hóa đặc biệt. Việc rời bỏ những cơ sở quen thuộc, nơi gắn với ký ức của nhiều thế hệ giảng viên, sinh viên không dễ được chấp nhận.
Bên cạnh đó, việc di dời không chỉ là chuyển địa điểm học mà còn liên quan đến sinh kế, nơi ở, công việc của cán bộ, giảng viên và sinh viên. Vì vậy, nếu không có hệ thống giao thông kết nối thuận lợi giữa khu vực mới và khu trung tâm, quá trình này sẽ rất khó khả thi.
Ngoài ra, khi chuyển đến địa điểm mới, môi trường học tập, nghiên cứu, sinh hoạt và cơ hội phát triển phải tương đương hoặc tốt hơn thì mới thu hút được người học và người dạy. Do đó, việc đầu tư đồng bộ hạ tầng, tiện ích, khu văn hóa - thể thao - giải trí, thư viện, ký túc xá… là điều kiện tiên quyết.
Đồng quan điểm, ông Tô Anh Tuấn - Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Hà Nội nhấn mạnh, việc di dời các trường đại học ra khỏi khu vực nội đô là chủ trương đúng đắn và cần thiết, góp phần quan trọng trong quá trình tái cấu trúc không gian đô thị trung tâm của Thủ đô.
Theo đó, việc di dời các trường đại học không phải là một chủ trương riêng lẻ, mà nằm trong tổng thể quy hoạch phát triển đô thị. Thành phố Hà Nội hiện đang đối mặt với hàng loạt áp lực như tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, quá tải bệnh viện và trường học - tất cả bắt nguồn từ việc tập trung quá nhiều hoạt động kinh tế - xã hội trong vùng lõi trung tâm, vượt quá sức chịu đựng của hạ tầng đô thị.
Vì vậy, để cân bằng lại không gian phát triển, việc chuyển bớt dân cư, cơ sở chức năng và các hoạt động xã hội ra ngoài trung tâm là yêu cầu tất yếu. Trong đó, các trường đại học - vốn không phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí trung tâm là đối tượng phù hợp để di dời.
“Dù vậy, việc triển khai chủ trương này trong thực tế lại diễn ra rất chậm, do gặp phải nhiều khó khăn. Trước hết, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mới cho hàng chục trường, thậm chí vài chục trường đại học là một gánh nặng tài chính lớn, không thể thực hiện trong thời gian ngắn.
Thứ hai, di dời trường đại học không đơn giản là chuyển địa điểm, mà còn là xây dựng một khu đô thị đại học hoàn chỉnh, có hạ tầng, dân cư, dịch vụ xã hội đi kèm. Một trường đại học không thể “đặt giữa cánh đồng trống”, mà phải gắn liền với cộng đồng dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội xung quanh.
Một yếu tố khác khiến việc di dời chậm trễ là tác động đến đời sống và lợi ích của giảng viên, sinh viên. Việc di chuyển xa vài chục cây số khiến việc đi lại, sinh hoạt trở nên bất tiện, trong khi lợi ích cụ thể cho nhà trường và cán bộ, giảng viên tại cơ sở mới chưa rõ ràng, dẫn đến tâm lý e ngại, thiếu quyết tâm.
Cùng với đó, các cơ quan quản lý cũng chưa thực sự quyết liệt, dẫn đến thiếu cơ chế, thiếu vốn, thiếu bộ máy thực thi - khiến quá trình di dời càng thêm trì trệ”, Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Hà Nội bày tỏ.
Cần có quy hoạch tổng thể và đồng bộ cho không gian đại học mới
Thực tế, một số trường đại học đã và đang xây dựng phân hiệu mới tại các tỉnh lân cận như Đại học Bách khoa Hà Nội xây dựng ở Hưng Yên; Trường Đại học Y Hà Nội, Trường Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Dược Hà Nội chọn về Bắc Ninh; Học viện Ngân hàng, Đại học Kinh tế Quốc dân xây dựng cơ sở ở Hà Nam,.…
Nhưng phần lớn cơ sở mới chưa vận hành hiệu quả do thiếu hạ tầng kết nối và môi trường sinh hoạt đồng bộ, khiến khu mới trở nên biệt lập. Bài học này cho thấy nếu không chuẩn bị tổng thể, việc “di dời” sẽ khó đạt mục tiêu “giãn” dân số, mà ngược lại còn gây xáo trộn cho cả thầy và trò.
Để việc di dời đạt hiệu quả, theo Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường, trước hết cần có một quy hoạch tổng thể và đồng bộ cho không gian đại học mới.
Hiện nay, thành phố Hà Nội đang quy hoạch khu vực Hòa Lạc trở thành trung tâm đào tạo và nghiên cứu quy mô lớn của thủ đô. Tại đó không chỉ có Đại học Quốc gia Hà Nội như hiện nay, mà thành phố dự kiến mở rộng thêm khoảng 1.500 đến 2.000 héc-ta đất liền kề để bố trí các trường đại học khác.
Sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội học tập và sinh hoạt tại khu vực Hòa Lạc. Ảnh: website nhà trường
Khi hoàn thành, toàn bộ khu vực này và vùng phụ cận sẽ hình thành một quần thể rộng từ hơn 2.000 đến 3.000 héc-ta, tập trung các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu và trung tâm khoa học. Với quy mô này, Hòa Lạc sẽ trở thành một không gian đại học - nghiên cứu hiện đại, nơi có thể đầu tư đồng bộ hệ thống hạ tầng chung, phục vụ hiệu quả cho hoạt động giảng dạy, học tập và đổi mới sáng tạo.
Tại đây, dự kiến đầu tư chung hệ thống hạ tầng thiết yếu như khu thể thao, văn hóa, sân vận động, thư viện, khu khởi nghiệp, ký túc xá và công trình nghiên cứu… nhằm phục vụ chung cho nhiều trường. Cách làm này vừa tiết kiệm, vừa tạo nên môi trường học tập hiện đại, năng động, hấp dẫn.
Song song với đó, cần xây dựng hệ thống giao thông đồng bộ, đặc biệt là tuyến đường sắt đô thị số 5, để kết nối khu vực Hòa Lạc với trung tâm Hà Nội. Khi đó, quãng đường di chuyển giữa cơ sở mới và nội đô sẽ không còn là rào cản: giảng viên, sinh viên có thể linh hoạt tham gia các hoạt động ở cả hai nơi.
Cơ sở trung tâm vẫn có thể được giữ lại cho các hoạt động đào tạo sau đại học, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp, hội thảo hay hợp tác quốc tế - những lĩnh vực không đòi hỏi quy mô lớn về không gian.
Ngoài đầu tư hạ tầng công cộng, Nhà nước và địa phương cũng cần có cơ chế tín dụng ưu đãi để các trường đại học có thể xây dựng cơ sở vật chất riêng, hiện đại hơn.
Nguồn vốn này có thể được trích từ các chính sách đặc thù của Hà Nội, như việc giữ lại phần chênh lệch thu từ đất để tái đầu tư hạ tầng và hỗ trợ các dự án di dời. Đây là nguồn lực quan trọng giúp hiện thực hóa mục tiêu giãn mật độ đào tạo bậc đại học khỏi nội đô từ nay đến năm 2030.
“Về yếu tố quyết định thành công, theo tôi, chìa khóa nằm ở việc tạo dựng một không gian đại học mới có sức hấp dẫn thực sự - nơi người học, người dạy cảm thấy môi trường ở đó tốt hơn trung tâm, với hạ tầng hiện đại, kết nối thuận tiện và cơ hội phát triển phong phú.
Khi khu vực mới được gắn kết với các khu công nghệ cao, viện nghiên cứu, doanh nghiệp, sinh viên sẽ có thêm nhiều cơ hội học tập, thực hành và việc làm. Đồng thời, mối liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, giữa nghiên cứu và sản xuất sẽ trở nên chặt chẽ hơn, mang lại lợi ích cho cả người học, nhà trường và xã hội.
Như vậy, việc di dời các cơ sở đào tạo ra khỏi nội đô không chỉ giúp giảm tải cho hạ tầng Hà Nội, mà còn là cơ hội để tái cấu trúc hệ thống giáo dục đại học theo hướng hiện đại, liên kết, và bền vững hơn”, Đại biểu Hoàng Văn Cường nói.
Còn theo ông Tô Anh Tuấn, để đẩy nhanh tiến độ di dời khối đào tạo sinh viên đại học ra khỏi nội đô, thành phố Hà Nội không thể tự mình thực hiện chủ trương này, bởi phần lớn các trường đại học trên địa bàn trực thuộc các bộ, ngành trung ương.
Do đó, sự thống nhất và phối hợp giữa các bộ, ngành và Chính phủ là yếu tố tiên quyết. Khi có sự đồng lòng từ cấp trung ương, mới có thể ban hành được chủ trương nhất quán, chương trình hành động cụ thể và kế hoạch vốn rõ ràng để triển khai.
Ông Tô Anh Tuấn - Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Hà Nội. Ảnh: Đình Nam
Đề cập đến việc lựa chọn địa điểm di dời, ông Tuấn cho rằng điều này cần có một quy hoạch tổng thể và đồng bộ, do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các địa phương.
Dù một số trường đã lựa chọn xây dựng cơ sở mới tại khu vực ngoại thành và một số tỉnh lân cận như Hòa Lạc, Hà Nam, Bắc Ninh, Hưng Yên… nhưng việc bố trí này nhiều khi không trùng khớp với quy hoạch của Hà Nội, do mỗi trường có mong muốn riêng, thậm chí phụ thuộc vào ý chí lãnh đạo từng thời kỳ. Vì thế, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đóng vai trò điều phối, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các trường và chính quyền địa phương - nơi trường sẽ di chuyển đến.
Chủ tịch Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Hà Nội cũng lưu ý, các trường đại học không thể tồn tại biệt lập: khi quy hoạch khu vừa đào tạo đại học mới, cần gắn liền với quy hoạch dân cư, việc làm, hạ tầng giao thông và dịch vụ xã hội. Sinh viên cần nơi thực tập, nơi ăn ở; người dân cần cơ hội kinh doanh; tất cả phải nằm trong một hệ sinh thái đồng bộ. Nếu có kế hoạch thống nhất giữa ngành giáo dục và các địa phương, quá trình di dời sẽ diễn ra thuận lợi, đồng bộ và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, khi các trường mở cơ sở ở ngoại thành hoặc các tỉnh lân cận, việc đầu tư hệ thống kết nối giữa khu vực mới và nội đô là điều tất yếu. Ban đầu có thể là các tuyến xe buýt, về lâu dài có thể phát triển đường sắt đô thị hoặc tàu điện tốc độ cao để đảm bảo kết nối thuận tiện.
Dù vậy, không phải trường nào cũng cần giữ mối liên hệ thường xuyên với nội đô. Có những trường hoàn toàn có thể xây dựng hướng phát triển độc lập, gắn bó lâu dài với địa phương mới.
Cùng trao đổi về vấn đề này, Tiến sĩ Lê Đông Phương - nguyên cán bộ Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng, việc xây dựng các cơ sở mới của các trường đại học nên được tính toán trong bán kính không quá xa trung tâm, lý tưởng là khoảng 20km, để đảm bảo thuận tiện cho việc di chuyển của giảng viên và sinh viên.
Nếu có thể, thành phố Hà Nội cần có một tư duy quy hoạch mới - chẳng hạn như việc hình thành một “đô thị đại học” ở phía Bắc sông Hồng, vừa gần trung tâm vừa có quỹ đất để phát triển.
“Khi đó, các trường có thể đặt trụ sở mới trong phạm vi hợp lý, tạo nên một cụm đại học - nghiên cứu - sáng tạo, gắn kết với đô thị tri thức của Thủ đô,” Tiến sĩ Lê Đông Phương gợi ý.
Tiến sĩ Lê Đông Phương - nguyên cán bộ Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ảnh: Ngân Chi.
Từ góc nhìn của ông, một khu đô thị đại học hợp lý không chỉ giúp giảm tải cho nội đô, mà còn mở ra động lực phát triển mới cho giáo dục đại học, khi giảng viên và sinh viên vẫn duy trì được mối liên kết với các hoạt động kinh tế - xã hội của thành phố.
Đình Nam