Tổ hợp điện năng lượng tái tạo của Tập đoàn Trung Nam đầu tư tại huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận (cũ). Ảnh tư liệu - minh họa: Công Thử/TTXVN
Phát biểu khai mạc, ông Bùi Quốc Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực (Bộ Công Thương) cho biết, theo quy định phát triển quốc gia, để đảm bảo nhu cầu tăng trưởng kinh tế - xã hội từ 8% trở lên trong năm 2025 và trên 10% trong giai đoạn 2026 - 2030, phát triển điện lực cũng phải tăng mạnh. Hiện tổng công suất lắp đặt khoảng 90.000 MW, nhưng đến 2030 dự kiến phải đạt 180.000 MW; trong đó, hệ thống lưu trữ năng lượng theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh cần đạt 10.000 - 16.300 MW.
Ông Hùng nhấn mạnh, hệ thống lưu trữ điện tại Việt Nam hiện vẫn ở giai đoạn thử nghiệm, chủ yếu triển khai cùng các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được giao đầu tư, với dự kiến vận hành khoảng 1.000 MW vào 2026 - 2027. Tuy nhiên, quá trình triển khai gặp nhiều vướng mắc về quy hoạch, vị trí lắp đặt, tiêu chuẩn kỹ thuật, giá thành, cơ chế tham gia vận hành thị trường điện và bảo đảm quán tính hệ thống.
Tại hội thảo, các báo cáo tham luận tập trung vào quy hoạch, vị trí đầu tư, định hướng giá thành, tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ, an toàn phòng cháy chữa cháy đối với BESS (hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin). Các ý kiến từ kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn Việt Nam và nghiên cứu khoa học sẽ được Cục Điện lực tổng hợp, báo cáo Bộ Công Thương và Chính phủ nhằm xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, tháo gỡ khó khăn cho triển khai hệ thống lưu trữ năng lượng, đáp ứng yêu cầu cung cấp điện theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh.
Ông Nguyễn Hoàng Linh tới từ Phòng Kế hoạch và Quy hoạch, Cục Điện lực (Bộ Công Thương) trình bày tham luận về thực trạng, nhu cầu, quy mô và khung chính sách phát triển BESS. Theo Quyết định 768/QĐ-TTg, điện gió và điện mặt trời sẽ chiếm 40 - 47% tổng công suất đặt đến năm 2030, đặt ra thách thức vận hành ổn định hệ thống khi các nguồn nền không tăng thêm. BESS trở thành giải pháp không thể thiếu, với quy mô dự kiến 10.000 - 16.300 MW, lắp đặt phân tán tại các trung tâm điện gió, điện mặt trời, trạm biến áp hoặc đi kèm nhà máy điện mặt trời, tối thiểu đáp ứng 2 giờ lưu trữ.
Bên cạnh đó, công nghệ BESS mang lại các lợi ích về kinh tế và vận hành như quản lý phụ tải đỉnh, giảm nhu cầu nâng cấp hạ tầng, cung cấp nguồn dự phòng và năng lượng độc lập cho microgrid (lưới điện siêu nhỏ, vận hành độc lập hoặc kết nối linh hoạt với hệ thống điện quốc gia), hỗ trợ khởi động đen (Black Start - khởi động lại nhà máy hoặc hệ thống điện khi toàn bộ lưới mất điện, không phụ thuộc nguồn bên ngoài) và tăng khả năng hấp thụ năng lượng tái tạo. Pin Lithium-ion - công nghệ phổ biến cho BESS có hiệu suất cao 85 - 92%, phản ứng nhanh, dễ mở rộng và chi phí giảm theo thời gian.
Ông Nguyễn Minh Đức, Phó Trưởng ban Ban Kỹ thuật và An toàn EVN cho biết, các nguồn năng lượng tái tạo đầu tư nhanh như điện gió, mặt trời đã làm đầu tư lưới điện chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng nguồn điện, tập trung ở miền Trung và miền Nam. Hiện EVN đã cơ bản giải tỏa các điểm nghẽn truyền tải. Tuy nhiên, khi năng lượng tái tạo phát cao và ổn định công suất thấp, xuất hiện dao động điện áp và sóng hài bậc cao, ảnh hưởng chất lượng điện năng. Việc chuyển đổi phương tiện sang sử dụng điện cũng làm tăng nhu cầu tiêu thụ điện 10 - 15 GW, gây đầy tải lưới phân phối tại các thành phố lớn.
Theo Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC), đơn vị đã chủ động triển khai BESS: Phối hợp với Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia (NSMO) tính toán nhu cầu lắp đặt giai đoạn 2026 - 2030, nghiên cứu giải pháp điều khiển, vận hành, đo lường - giám sát và hoàn thiện tiêu chuẩn pháp lý; đồng thời triển khai ngay kế hoạch lắp đặt 1.200 MW trên lưới phân phối, hoàn thành trước mùa khô 2026; trong đó, Tổng công ty Điện lực miền Bắc (EVNNPC) 500 MW, Tổng công ty Điện lực Hà Nội (EVNHANOI) 200 MW, Tổng công ty Điện lực miền Trung (EVNCPC) 100 MW, Tổng công ty Điện lực TP. Hồ Chí Minh (EVNHCMC) 200 MW và Tổng công ty Điện lực miền Nam (EVNSPC) 200 MW. Khu vực miền Bắc có thể lắp 805 MW tại các trạm biến áp hiện hữu, riêng Hà Nội 275 MW, các tỉnh còn lại 530 MW.
Ông Nguyễn Danh Đức, Trưởng ban Kỹ thuật EVNNPC nhấn mạnh, BESS là giải pháp chiến lược cho vận hành lưới điện trong bối cảnh năng lượng tái tạo tăng cao. Đến năm 2030, tổng công suất BESS dự kiến 10.000 - 16.300 MW, đến 2035 là xấp xỉ 20.287 MW và 2050 đạt từ 95.983 - 96.120 MW. Hệ thống BESS có khả năng dịch chuyển phụ tải, cắt đỉnh, hỗ trợ điều tần, điều áp, tăng quán tính hệ thống và hỗ trợ khởi động đen.
Để triển khai hiệu quả, EVNNPC đã khảo sát 84 trạm biến áp 110 kV đủ điều kiện, tổng công suất tiềm năng 530 MW/1.060 MWh. Ban Kỹ thuật xây dựng bộ Hồ sơ mời thầu khung với công nghệ tiên tiến (LFP, NCA, làm mát chất lỏng), chế độ Grid-Following (chế độ bám lưới - thiết bị vận hành dựa trên tín hiệu điện áp và tần số có sẵn của lưới điện) và Grid-Forming (chế độ tạo lưới - thiết bị chủ động tạo điện áp và tần số tham chiếu, giúp ổn định hệ thống khi nguồn nền yếu), yêu cầu cam kết hiệu suất rõ ràng.
Tuy nhiên, EVNNPC vẫn đối mặt các thách thức về phòng cháy chữa cháy, quản lý vòng đời pin, tích hợp EMS (Energy Management System - hệ thống quản lý năng lượng) vào SCADA/DMS (SCADA - hệ thống giám sát, điều khiển và thu thập dữ liệu; DMS - hệ thống quản lý lưới phân phối), làm chủ công nghệ, thử nghiệm đánh giá thiết bị, mua sắm và quản lý dự án phức tạp, trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh. Những vấn đề này cần sự tháo gỡ, hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước.
Theo ông Nguyễn Danh Đức, BESS không còn là lựa chọn mà là thành phần bắt buộc để đảm bảo an ninh vận hành hệ thống điện miền Bắc. EVNNPC đã xác định quy mô, sẵn sàng về kỹ thuật và kiến nghị được tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để đưa các dự án BESS vào vận hành, góp phần bảo đảm an ninh cung ứng điện một cách bền vững.
Văn Giáp (TTXVN)