Lo ngại bản sắc dân tộc dễ bị mai một
Công nghiệp văn hóa đang trở thành xu hướng và được xác định là phần quan trọng, bền vững, đóng góp vào sự tăng trưởng của đất nước. Các sản phẩm, dịch vụ của ngành công nghiệp văn hóa đã góp phần gia tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quảng bá hình ảnh Việt Nam với thế giới. Các ngành công nghiệp văn hóa có tỷ lệ giá trị gia tăng cao hơn so với chi phí sản xuất, góp phần tiết kiệm tài nguyên, phát huy và kết hợp được các yếu tố tự nhiên, văn hóa, bản sắc dân tộc và đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Trong 5 năm qua, bình quân tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt 7,21%/năm. Chỉ tính riêng năm 2022, thống kê có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động có liên quan đến ngành công nghiệp văn hóa và bình quân lực lượng lao động thu hút khoảng 1,7 triệu đến 2,3 triệu người, tăng 7,44%/năm. Việt Nam đang là quốc gia tầm trung về phát triển công nghiệp văn hóa và còn nhiều dư địa phát triển.
Tuy nhiên, để biến tiềm năng đó thành hiện thực, để mỗi sản phẩm văn hóa mang đậm “hơi thở Việt” lại có khả năng cạnh tranh, lan tỏa lại không hề đơn giản. Một trong những thách thức lớn nhất đối với công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện nay là sự xâm nhập mạnh mẽ của các giá trị, sản phẩm văn hóa toàn cầu từ âm nhạc, phim ảnh, thời trang… đến nội dung mạng xã hội. Khi người trẻ đối tượng tiêu thụ lớn dễ dàng tiếp cận văn hóa quốc tế, thì văn hóa Việt nếu không được định hình rõ ràng và vững chắc rất dễ bị lấn át. Nếu không có cái nhìn chiến lược để “chọn lọc tinh hoa toàn cầu, giữ vững cái Việt”, bản sắc dân tộc dễ bị mai một.
Mặc dù có chủ trương phát triển, song thực tế nhiều ngành trong công nghiệp văn hóa Việt Nam vẫn thiếu hụt nghiêm trọng về nguồn lực và kinh phí. Việc sản xuất các sản phẩm văn hóa phim ảnh, game, thiết kế thời trang, nghệ thuật đương đại… đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài và rủi ro cao. Nhiều doanh nghiệp văn hóa, đặc biệt doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ khó tiếp cận đầu tư. Để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cạnh tranh quốc tế từ hình ảnh, âm thanh, thiết kế, xuất bản… cần hệ thống kỹ thuật, công nghệ và nền tảng phân phối hiện đại. Hiện nhiều đơn vị còn hạn chế về thiết bị, chưa tiếp cận tốt công nghệ mới. Tình trạng này khiến nhiều ý tưởng sáng tạo dù có bản sắc và chất lượng cũng không được hiện thực hóa tốt, hoặc không thể lan tỏa rộng.
Một nghịch lý trong phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam là nhiều tác phẩm, sản phẩm có chiều sâu văn hóa, có bản sắc rõ, nhưng lại “đứng giữa ngã ba”: đẹp về nghệ thuật, nhưng yếu về thương mại; hoặc có ý tưởng, nhưng thiếu chiến lược để tiếp cận khán giả, người tiêu dùng.
Nhiều tác phẩm Việt từng chỉ dừng lại ở “đẹp trong cộng đồng nghệ thuật”, chứ chưa thực sự trở thành sản phẩm đại chúng, có sức lan tỏa. Trong khi đó, việc tiếp cận thị trường quốc tế, nơi mà tiêu chuẩn, yêu cầu cao hơn, cạnh tranh khốc liệt hơn lại càng đòi hỏi chiến lược bài bản, tầm nhìn lớn. Việt Nam mới chỉ có vài trường hợp thành công, nhưng chưa thành một xu hướng ổn định và có hệ thống.
Sự bùng nổ của môi trường số, mạng internet, truyền thông, bên cạnh việc mở ra cơ hội quảng bá, lan tỏa nhanh cũng đặt ra nhiều vấn đề: vi phạm bản quyền, sao chép trái phép, phân phối không kiểm soát, nội dung hỗn loạn, đạo nhái, làm biến dạng giá trị văn hóa.
Lễ rước ngựa sắt tại Hội Gióng. (Ảnh: Hiền Anh)
Trên thực tế, hệ thống pháp lý, biện pháp bảo hộ bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm văn hóa chưa thực sự đồng bộ, toàn diện, chưa theo kịp sự phát triển nhanh của công nghệ và môi trường số.
Điều này không chỉ làm giảm động lực sáng tạo, mà còn làm giảm doanh thu, uy tín cho các nghệ sĩ, doanh nghiệp khiến nhiều người e ngại đầu tư làm sản phẩm chất lượng, mang bản sắc Việt nhưng dễ bị đánh cắp, làm méo mó giá trị nghệ thuật, lan truyền trái phép.
Thêm nữa, với công nghệ mới AI, số hóa, phân phối trực tuyến, truyền thông xã hội khiến việc kiểm soát nội dung, giữ vững giá trị văn hóa, kiểm soát chất lượng trở thành bài toán khó. Nếu quản lý lỏng lẻo, rất dễ xảy ra tình trạng “văn hóa rác”, nội dung nhảm nhí, lệch lạc giá trị, giảm sút niềm tin của công chúng vào sản phẩm văn hóa Việt.
Việc phát triển công nghiệp văn hóa đôi khi vướng vào mâu thuẫn giữa mục tiêu kinh tế và văn hóa bản sắc. Khi kinh tế trở thành ưu tiên, đôi khi các giá trị truyền thống, chiều sâu văn hóa, tính nhân văn, bản sắc dân tộc bị xem nhẹ, bị “thương mại hóa” quá mức, hoặc biến tướng để phù hợp với thị hiếu đương đại.
Hơn nữa, trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không ít di sản, làng nghề, nghệ thuật truyền thống dễ bị mai một, hoặc bị biến dạng để phù hợp với “gu khách hàng đại chúng”. Điều này đe dọa tính bền vững của bản sắc văn hóa, làm giảm đi những gì “thực sự Việt”.
Cần bảo vệ quyền lợi của nghệ sĩ và những người sáng tạo
Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, TS Nguyễn Phương Hòa, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đưa ra ý kiến, để tăng cường “sức mạnh mềm”, Việt Nam cần tiếp tục đầu tư tăng cường sự hiện diện tại các sự kiện văn hóa, nghệ thuật uy tín trong khu vực và quốc tế, chủ động đăng cai một số sự kiện quy mô quốc tế để vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, và giới thiệu, ra mắt các sản phẩm văn hóa chất lượng cao của Việt Nam, từng bước xây dựng các sản phẩm thương hiệu quốc gia hướng tới xuất khẩu.
Festival Huế đậm bản sắc văn hóa Việt. (Ảnh: Nhật Anh)
Các địa phương cần chú ý xây dựng các thương hiệu riêng như: Hà Nội - Thành phố sáng tạo với các Liên hoan thiết kế sáng tạo, Liên hoan Phim quốc tế Hà Nội, Liên hoan Âm nhạc Gió mùa…, Huế - Thành phố festival với Festival Huế, Festival làng nghề truyền thống, Đà Lạt với các Lễ hội hoa, chương trình âm nhạc uy tín… Để quảng bá hình ảnh quốc gia, Nhà nước cần đầu tư để Việt Nam tham gia định kỳ, bài bản, có quy mô tại các kỳ World Expo, Venice Biennale về nghệ thuật, Milan Triennale về kiến trúc, các không gian quảng bá quốc gia tại các kỳ Liên hoan phim quốc tế Cannes, Berlin…
TS Nguyễn Phương Hòa cũng đưa ra kiến nghị, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện đồng bộ thể chế, gắn kết chính sách công nghiệp văn hóa sáng tạo trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế, xã hội quốc gia: Đổi mới tư duy quản lý nhà nước sang “kiến tạo”, “phục vụ phát triển”, trở thành “kim chỉ nam” cho việc xây dựng thể chể, pháp luật, cơ chế, chính sách. Trong lĩnh vực văn hóa, một lĩnh vực được xem còn thiếu nhiều bộ luật, việc xây dựng các bộ luật mới và sửa đổi các luật hiện hành cần dựa trên tư duy thúc đẩy tự do sáng tạo, bảo vệ quyền của nghệ sĩ, người sáng tạo, hỗ trợ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và các ngành công nghiệp văn hóa sáng tạo phát triển. Đặc biệt, cần xây dựng một cơ chế thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ và bảo vệ bản quyền tác giả, nhất là trong môi trường số. Luật pháp và các chính sách về bản quyền phải bảo vệ quyền lợi của nghệ sĩ và những người sáng tác, nhưng đồng thời phải bảo đảm sự cân bằng về việc công chúng được tiếp cận với các tác phẩm sáng tạo.
Có thể thấy, khẳng định bản sắc Việt trong sáng tạo công nghiệp văn hóa là hành trình dài hơi: cân bằng giữa truyền thống và hiện đại, giữ gìn giá trị gốc, đồng thời đổi mới, sáng tạo, hội nhập; Là việc xây dựng hệ sinh thái từ đào tạo nhân lực, phát triển kỹ thuật, hạ tầng, pháp lý, thị trường đến xây dựng thương hiệu văn hóa quốc gia, bảo hộ bản quyền, quản lý nội dung, marketing, xuất khẩu.
Nếu thành công, Việt Nam sẽ không chỉ có một nền công nghiệp văn hóa phát triển mà còn có một “bản sắc Việt toàn cầu”: sản phẩm chất lượng, đậm hồn Việt, có sức lan tỏa, được bạn bè quốc tế trân trọng, yêu mến. Và hơn thế, đó là cách tốt nhất để giữ gìn linh hồn dân tộc, tạo niềm tự hào văn hóa, kết nối quá khứ và tương lai, truyền cảm hứng sáng tạo cho thế hệ sau, để văn hóa Việt không chỉ sống, mà tỏa sáng.
Một trong những hạn chế lớn là hiện nay Việt Nam chưa có một “thương hiệu văn hóa quốc gia” rõ ràng, tức một bộ nhận diện văn hóa mang đậm bản sắc Việt, dễ nhận biết, dễ gợi liên tưởng, đủ sức lan tỏa quốc tế. Dù chúng ta có nguồn tài nguyên văn hóa phong phú từ 54 dân tộc, truyền thống lịch sử, nghệ thuật dân gian, làng nghề, phong tục… nhưng việc khai thác, hệ thống hóa, phát triển thành thương hiệu có giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội lại còn rất lỏng lẻo. Phần lớn việc khai thác di sản văn hóa vẫn mang tính nhỏ lẻ, thủ công, thiếu chiến lược dài hạn. Các doanh nghiệp tư nhân chưa được khuyến khích mạnh, hệ thống hỗ trợ, định hướng thị trường, kết nối quốc tế cũng chưa đồng bộ. Do đó, sản phẩm văn hóa Việt dù có chất lượng, độc đáo cũng dễ rơi vào tình trạng “riêng lẻ”, “cục bộ”, không lan tỏa rộng, không xây dựng được thương hiệu mạnh.
Thùy Dương