Không những vậy, bà còn được biết đến với những đóng góp to lớn trong việc nghiên cứu ảnh hưởng của chất độc da cam/dioxin và những nỗ lực không mệt mỏi nhằm cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa...
GS.BS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng - nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ.
Ước mơ là bác sĩ cứu người từ chiếc ống nghe
Dù đã bước sang tuổi 81, nhưng GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng vẫn khắc sâu trong tâm trí hình ảnh vị bác sĩ đầu tiên đã chữa bệnh cho mình. Một ký ức mà bà luôn xem như nguồn cảm hứng lớn lao cho hành trình y nghiệp của mình. Bà nhớ lại, khi ấy, bà chỉ là một cô bé nhỏ gầy ốm tong teo, sinh ra trong một gia đình nghèo khó. Cô bé Ngọc Phượng mắc phải bệnh thương hàn, đã chạy chữa nhiều nơi nhưng không khỏi. Trong cảnh túng thiếu, mẹ cô nghe đồn về một bác sĩ tây y rất giỏi, liền gom góp tất cả số tiền ít ỏi trong nhà để đưa cô đi khám.
"Đến nơi, vị bác sĩ ấy đã dùng ống nghe để kiểm tra nhịp tim, phổi, cẩn thận thăm khám cho tôi. Điều khiến tôi kinh ngạc là ông có thể chữa khỏi căn bệnh đeo bám tôi bấy lâu chỉ bằng một hũ thuốc nhỏ", bà kể lại với ánh mắt xúc động. Chính sự tài tình và tận tâm của vị bác sĩ đã cứu sống cô gái, giúp cô thoát khỏi căn bệnh tưởng như vô vọng. Từ giây phút ấy, hình ảnh người bác sĩ cứu mình đã khắc sâu trong trái tim cô gái Ngọc Phượng ngày nào, khơi dậy một khát vọng mãnh liệt rằng lớn lên sẽ trở thành bác sĩ để cứu người.
Bà chia sẻ: "Tôi đã nói với ba má mình rằng: Lớn lên chắc chắn con sẽ làm bác sĩ để sau này trị bệnh cho những đứa trẻ ở quê". Và từ đó, cô gái Ngọc Phượng (sau này là giáo sư) đã không ngừng nỗ lực vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để trở thành một trong những bác sĩ hàng đầu của Việt Nam, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp y học và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Để theo đuổi ước mơ trở thành bác sĩ, thời bấy giờ, cô gái Ngọc Phượng phải đối mặt với nhiều thử thách. Việc học y khoa yêu cầu thành thạo tiếng Pháp, vậy là cô bắt đầu tự học tiếng Pháp qua những tài liệu ít ỏi có được. Sự cố gắng ấy đã được đền đáp khi cô thi đậu lớp dự bị y khoa (APM) tại Y khoa Đại học Đường Sài Gòn (nay là Trường Đại học Y Dược TP.HCM). Nhưng đó chỉ mới là khởi đầu cho một hành trình đầy gian khó.
Vào thời điểm ấy, gia đình Ngọc Phượng rất khó khăn, cha mẹ phải gồng gánh nuôi 7 người con. Kinh tế eo hẹp, áp lực đè nặng lên đôi vai của cô gái trẻ. Tuy nhiên, Ngọc Phượng không cho phép mình từ bỏ đam mê. Ban ngày Ngọc Phượng miệt mài học tập, tối đến lại làm việc để phụ giúp gia đình. Mỗi ngày trôi qua là một cuộc chiến với nghèo đói, nhưng Ngọc Phượng vẫn kiên trì bám trụ với khát vọng được khoác lên mình chiếc áo blouse trắng.
Bằng sự kiên trì và nỗ lực không ngừng nghỉ, Ngọc Phượng đã vượt qua kỳ thi nội trú đầy cam go và tiếp tục con đường học tập của mình. Khi nhận được kết quả đậu nội trú, Ngọc Phượng vô cùng hạnh phúc, nhưng gia đình vốn mong Ngọc Phượng nhanh chóng ra trường để làm việc, nên không muốn cho học tiếp. Để thuyết phục gia đình, Ngọc Phượng giải thích rằng "mình không thể làm một bác sĩ dở suốt đời". Với Ngọc Phượng, việc học tiếp không chỉ là mong muốn cá nhân mà còn là trách nhiệm lớn lao để bảo vệ và cứu sống bệnh nhân. Cuối cùng, gia đình chấp nhận cho Ngọc Phượng tiếp tục học thêm 3 năm nội trú và 3 năm chuyên ngành sản phụ khoa. Đây chính là bước ngoặt quan trọng trong hành trình sự nghiệp của Ngọc Phượng.
"Bà tiên" của hàng ngàn gia đình Việt
Lâu nay, nhắc tới GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, người ta thường nhớ đến nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam đi tiên phong đưa kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về ứng dụng tại nước nhà, mang lại niềm vui và hy vọng cho hàng nghìn gia đình.
Là bác sĩ sản khoa, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng thường xuyên tiếp xúc với nhiều phụ nữ hiếm muộn. Qua những tâm sự của họ, bà rất thương. Thậm chí nhiều người còn chịu áp lực tâm lý khắt khe từ nhà chồng. Họ nỡ buông những câu như: "Cây độc không trái, gái độc không con"... làm tổn thương sâu sắc đến người phụ nữ. Từ đó, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng luôn ấp ủ phải làm sao giúp được chị em hiếm muộn có con để họ tìm lại niềm vui, tìm lại hạnh phúc cho chính bản thân và gia đình.
Năm 1984, trong một lần đi công tác tại Thái Lan, bà được thăm một cơ sở thụ tinh ống nghiệm, rồi bà nhen nhóm khát khao đem kỹ thuật này về ứng dụng tại Việt Nam.
Việc đầu tiên là bà tự xây dựng "nền móng" vững chắc tại Bệnh viện Từ Dũ. Bà xây dựng các chuyên khoa cơ bản để hỗ trợ kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm như: Khoa Nội soi, Khoa Xét nghiệm, mua máy siêu âm, máy xét nghiệm, xây dựng ngân hàng tinh trùng; Mua máy móc, thiết bị y tế như: Máy siêu âm đầu dò, máy xét nghiệm, dụng cụ lưu trữ tinh trùng...
GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng cử những bác sĩ trẻ, năng động, chuyên môn giỏi, có trình độ ngoại ngữ giỏi qua Pháp học tập về kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và về nước áp dụng. Và sau 13 năm chuẩn bị từ cơ sở vật chất, thiết bị máy móc đến đội ngũ chuyên môn giỏi... GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã đưa thành công kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm vào Việt Nam năm 1997.
GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng cũng chính là người khai sinh ra đội ngũ cô đỡ thôn bản, cánh tay nối dài của nhân viên y tế thôn bản trong chăm sóc sức khỏe phụ nữ mang thai, trẻ nhỏ vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Năm 2024, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng là 1 trong 5 người được Quỹ Giải thưởng Ramon Magsaysay vinh danh. Giải thưởng này được mệnh danh là "Giải Nobel châu Á", tôn vinh những "tinh thần vĩ đại thể hiện trong việc phục vụ quên mình người dân châu Á". GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng được vinh danh là bác sĩ người Việt Nam có nhiều đóng góp, cống hiến cho việc nghiên cứu tìm ra sự thật về những tàn phá của chất độc da cam/dioxin lên sức khỏe con người, sức khỏe sinh sản của các nạn nhân nhiễm chất độc da cam/dioxin, kiên trì theo đuổi công lý để đòi công bằng cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin. Bà đưa ra bằng chứng rằng không bao giờ là quá muộn để sửa chữa sai lầm của chiến tranh, giành lại công lý và cứu trợ cho những nạn nhân bất hạnh của nó.
GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng nhận Giải thưởng Ramon Magsaysay năm 2024 tại Thủ đô Manila (Philippines).
Ba thế hệ cùng niềm đam mê, cùng một sứ mệnh
GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng là người đứng đầu một gia đình có 3 thế hệ nối tiếp nhau cống hiến cho ngành Y.
Khi được hỏi, liệu rằng sự lựa chọn theo ngành Y của con và cháu bà có phải do truyền thống hay định hướng của gia đình không, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ: "Tôi sống ở viện nhiều hơn ở nhà, cũng chính vì thế mà tuổi thơ của con tôi gắn liền với bệnh viện. Có lẽ vì lớn lên trong môi trường như vậy nên lửa nghề Y đã thấm vào máu thịt của con. Các con từng nói với tôi rằng, chúng thích ngành Y, thích không khí và cuộc sống trong bệnh viện, muốn làm bác sĩ giống như mẹ và tiếp nối truyền thống gia đình".
PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan - con gái của GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng khẳng định tên tuổi của mình như một bác sĩ sản khoa hàng đầu tại Việt Nam, đặc biệt nổi bật trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm.
"Năm Lan thi đại học, nó nói nhìn xung quanh không biết làm nghề gì vì hồi nào đến giờ theo má hoài, chỉ quen mỗi nghề bác sĩ. Thế là Lan thi và đậu vào trường y. Ra trường, Lan chọn theo mẹ về Bệnh viện Từ Dũ", GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng kể.
Con gái lớn của GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, chị Vương Thị Ngọc Tâm hiện cũng là một bác sĩ chuyên khoa răng hàm mặt. Nhớ lại câu chuyện chuyển hướng bất ngờ của con, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ: "Ban đầu, con gái theo học và làm việc trong lĩnh vực kinh tế. Nhưng một ngày, con gọi điện cho tôi và nói rằng: "Má ơi, con muốn xin phép má cho con học ngành Y. Con cảm thấy mình chỉ thực sự quen thuộc và gắn bó với ngành này". Chính tình yêu và y học đã thôi thúc chị rẽ hướng và tiếp bước truyền thống gia đình.
GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng cùng con gái PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan và cháu gái BS. Hồ Ngọc Lan Nhi trong phòng mổ lấy thai cho thai phụ.
Không chỉ con gái GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng là bác sĩ, mà con rể của bà cũng theo ngành Y, cùng nhau tạo nên một gia đình gắn bó chặt chẽ với ngành Y tế. Chồng của PGS.TS. Vương Thị Ngọc Lan là ThS. Hồ Mạnh Tường - nguyên Trưởng khoa Hiếm muộn, Bệnh viện Từ Dũ, cũng là một bác sĩ tài năng và đam mê nghiên cứu trong lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm.
Niềm đam mê với y học của vợ chồng Lan - Tường được lan tỏa cả trong mái ấm của họ. Bệnh viện không chỉ là nơi làm việc mà dường như đã trở thành một phần không thể thiếu của cuộc sống, một ngôi nhà thứ hai của họ. Môi trường đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến thế hệ thứ ba trong gia đình - con gái lớn của Lan - Tường là Hồ Ngọc Lan Nhi cũng đã chọn ngành Y để theo học và tiếp nối truyền thống gia đình.
"Gia đình tôi có 3 thế hệ cống hiến cho ngành Y là vì tất cả chúng tôi đều thực sự yêu thích và trân trọng môi trường đặc biệt này", GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng chia sẻ với niềm tự hào.
Ngoài các con ruột, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng còn nhận nuôi một người con gái là ThS.BS. Lê Thị Hồng Nhung được đào tạo chuyên sâu ở Pháp trong lĩnh vực tâm lý trẻ em và hiện cũng đang công tác trong ngành Y, tiếp tục cống hiến cho sức khỏe cộng đồng.
Chia sẻ về gia đình, GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng cho biết, dù công việc bận rộn đến đâu, gia đình bà luôn duy trì một quy ước đặc biệt: Bữa tối là thời gian để tất cả các thành viên quây quần bên nhau. Với gia đình mà hầu hết các thành viên đều làm trong ngành Y, những bữa cơm tối không chỉ đơn thuần là dịp sum họp, mà còn giống như một "buổi hội chẩn" hay "giao ban" nhỏ tại nhà. Đây là lúc mọi người chia sẻ với nhau về công việc trong ngày, cùng nhau thảo luận những ca bệnh phức tạp, những thách thức cần lời giải đáp. Chính những bữa cơm gia đình đậm chất nghề Y ấy đã trở thành sợi dây kết nối tình thân và tiếp thêm động lực cho tất cả các thành viên trong hành trình cống hiến cho sự nghiệp cứu người.
* GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng hiện là Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP. Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam. Bà từng là Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, Viện trưởng Viện Tim TP. Hồ Chí Minh...
* GS. Nguyễn Ngọc Phượng đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân và Huân chương Lao động hạng Ba.
Theo GS. Nguyễn Thị Ngọc Phượng, con đường đến với nghề y là một hành trình mà bà phải tự mình đổ đá để bước qua. Dù gian nan, bà chưa từng cho phép mình dừng lại. Những khó khăn ấy không làm bà nản chí, mà trái lại, trở thành động lực giúp bà kiên cường hơn với khát vọng y nghiệp.
Nam Thương - Bảo Ngọc