Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã thực hiện thành công hơn 10 ca phẫu thuật tách rời các cặp song sinh dính đôi được thực hiện tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Nhi đồng 2, Bệnh viện Nhi đồng 1... Nhiều cặp được đánh giá rất phức tạp, ngay cả cường quốc y học cũng ít thành công.
Trong đó, hai ca mổ tách rời cặp song sinh dính đôi Nghĩa - Đàn (năm 2002) và Cúc - An (năm 2003) do các bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung ương thực hiện được đánh giá là những ca phẫu thuật phức tạp bậc nhất lúc bấy giờ.
Cặp song sinh Cúc - An được đánh giá là một trong những cặp song sinh dính đôi phức tạp bậc nhất lúc bấy giờ. Ảnh tư liệu.
Những cặp song sinh dính đôi được đánh giá phức tạp bậc nhất lúc bấy giờ
Theo đó, ngày 30/8/2002, các bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung ương đã tiến hành mổ tách hai bé song sinh 7 tháng tuổi Ngô Bá Nghĩa và Ngô Bá Đàn (thị xã Thái Hòa, Nghệ An). Ca mổ diễn ra phức tạp hơn nhiều so với dự kiến vì 2 cháu có quá nhiều phần nội tạng chung hoặc dính nhau, mà các biện pháp chẩn đoán trước đó không phát hiện được.
GS.TS Nguyễn Thanh Liêm, khi đó là Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương - phẫu thuật viên chính của ca mổ - chia sẻ, Nghĩa và Đàn bị dính ở màng tim, màng phổi, xương ức. Hai bé chỉ có 1 gan chung và 1 ống dẫn mật ngoài gan, chung tá tràng và 1 đoạn ruột non.
Khó khăn lớn nhất của ca mổ là tách đôi gan và xử lý đường dẫn mật khi cả hai chỉ chung nhau 1 ống dẫn mật ngoài gan duy nhất. Ống dẫn mật ngoài gan duy nhất đã dành cho Nghĩa. Để giải quyết thoát mật từ gan xuống đường tiêu hóa cho Đàn, 1 đoạn ruột non đã được tách ra mang lên nối vào diện gan vừa được tách đôi có chứa ống mật. May mắn, sau 8 giờ phẫu thuật căng thẳng, hai cháu đã được tách rời.
Nghĩa - Đàn dần phục hồi, cả hai đã vận động và phát triển trí tuệ như những trẻ bình thường khác. Tuy nhiên, do mật dẫn lưu không tốt, Đàn đã bị nhiễm trùng đường mật, suy gan và tử vong sau gần 2 tháng sau mổ tách. Còn Nghĩa được bố mẹ đón về nhà tại Nghệ An trong tình trạng sức khỏe tốt.
Sau ca mổ tách rời Nghĩa - Đàn không lâu, trong chuyến công tác tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa, Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm tình cờ biết đến cặp song sinh dính đôi Cúc - An (khi đó mới sinh được vài ngày). Sau khi cân nhắc, động viên gia đình chăm sóc hai bé thật tốt, vị Giáo sư hứa sẽ phẫu thuật tách rời cho hai em.
Cúc - An là hai bé sinh non ngày 6/12/2002 trong tình trạng dính liền từ ngực đến bụng, phần chân bị tím tái. Thời điểm sinh, Cúc nặng khoảng 1.5kg, An nặng 1.4kg.
Đến đầu năm 2003, khi Cúc - An được hơn 1 tháng tuổi, Giáo sư Liêm liên lạc lại với Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa đề nghị chuyển hai bé ra Bệnh viện Nhi Trung ương để phẫu thuật. Các cuộc chụp chiếu chẩn đoán sau đó xác định hai bé gái bị dính xương ức, cơ hoành, chung khoang màng tim, chung nhau 1 gan, chung tá tràng và ruột non. Các bác sĩ đã cố gắng bổ sung dinh dưỡng, nâng cao thể trạng trẻ để có sự chuẩn bị tốt nhất cho ca phẫu thuật.
Cuối cùng, sau 10 tháng, khi hai bé cứng cáp hơn, ca phẫu thuật cũng được tiến hành vào ngày 16/10/2003. Lúc này, Cúc - An đã nặng tổng cộng 15kg. Các bác sĩ xác định, tỷ lệ thành công sau mổ tách là 50-50, có thể phải ưu tiên cơ hội sống cho một trong hai bé.
Cặp song sinh Cúc - An trước khi phẫu thuật tách rời. Ảnh tư liệu.
Trước sự phức tạp của ca mổ đặc biệt này, tất cả các ca mổ khác ở bệnh viện hôm đó phải tạm dừng để tập trung phẫu thuật cho cặp song sinh Cúc - An. Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm là phẫu thuật viên chính, kết hợp cùng gần 50 y, bác sĩ và một chuyên gia người Mỹ tham gia ca mổ tách.
Ca phẫu thuật diễn ra trong khoảng 10 tiếng, từ 7h sáng đến 17h cùng ngày. Sau phẫu thuật, bé An gặp một số vấn đề về đường ruột, bụng chướng to, chảy máu dạ dày. Một thời gian sau, em liên tiếp bị tắc ruột, phải phẫu thuật tới 3 lần. May mắn, với sự theo dõi sát sao của các bác sĩ, sự chăm sóc tận tâm của gia đình, cô bé đã vượt qua được giai đoạn nguy hiểm.
"Ca phẫu thuật chỉ có một lựa chọn duy nhất là thành công, không được phép thất bại"
Hiện tại, khi nhắc đến 2 ca mổ tách rời phức tạp năm xưa, Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, dù đã ngoài 70 tuổi nhưng vẫn nhớ như in những khoảnh khắc "cân não" vì các bé dính nhau nhiều bộ phận, nhất là áp lực "chỉ được thành công, không được thất bại" trong cuộc phẫu thuật tách đôi cặp song sinh Cúc - An năm 2003.
Theo Giáo sư Liêm, việc tách cặp song sinh dính đôi Cúc - An và Nghĩa - Đàn đã để lại nhiều dấu ấn trong hành trình nghề y của ông. Bởi cả hai ca mổ đều rất phức tạp khi cả hai cặp đều chung gan và chung nhiều bộ phận khác. Hơn nữa, các ca mổ đều được tiến hành khi các phương tiện chẩn đoán hình ảnh còn rất hạn chế, không thể đánh giá được chính xác các tạng chung nhau trước khi phẫu thuật.
Cũng theo Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, trong phẫu thuật tách đôi các cặp song sinh dính nhau, việc quan trọng nhất là phải đánh giá chính xác được các nội tạng bên trong của hai bé để có thể xây dựng một kế hoạch phẫu thuật chính xác, phù hợp, tránh rủi ro có thể xảy ra.
"Quyết định tiến hành các ca mổ có nguy cơ tử vong cao là một quyết định cân não. Người thầy thuốc có nguy cơ mất hết danh tiếng và vướng vào nhiều chuyên khác nếu ca mổ thất bại. Tuy nhiên, nếu cho tôi quyết định lại tôi sẽ vẫn phải làm như vậy bởi vì tính mạng của người bệnh vẫn là điều đáng quý nhất, quan trọng nhất", vị Giáo sư nói.
Đối với ca mổ Nghĩa - Đàn, Giáo sư Liêm cho biết, ngoài chung gan, cả hai bé còn chung nhau một ống dẫn mật ngoài gan và một số bộ phận khác của đường tiêu hóa.
"Nghĩa - Đàn là ca mổ đầu tiên nên chúng tôi cũng chưa có kinh nghiệm tổ chức một ca mổ phức tạp. Mổ trong tình trạng chưa xác định được chính xác các tạng chung nhau nên rất hồi hộp và căng thẳng không khác gì đi đánh trận mà không biết đối phương bố trí quân lực thế nào. Kíp mổ đã có thời điểm phải dừng ca mổ để thảo luận phương án xử lý khi phát hiện cả hai bé chỉ chung nhau một ống dẫn mật ngoài gan", Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm nhớ lại.
Còn đối với ca mổ tách rời cặp song sinh Cúc – An diễn ra một năm sau đó, vị Giáo sư cho biết, ông và các cộng sự đã đỡ bỡ ngỡ hơn vì đã có kinh nghiệm sau cặp Nghĩa – Đàn, tuy nhiên lúc này cả ê kíp lại bị áp lực từ truyền thông.
"Trước mổ, tin tức về hai bé đã được đưa rất nhiều trên phương tiện đại chúng khiến chúng tôi chỉ có một lựa chọn duy nhất là thành công chứ không được phép thất bại", Giáo sư Liêm nói.
Cặp song sinh Cúc - An sau phẫu thuật. Ảnh tư liệu.
Điều nhớ nhất không phải là ca mổ mà là tình cảm của bệnh nhân và người nhà người bệnh
Hơn 20 năm sau những ca mổ tách rời phức tạp năm đó, những em bé dính nhau ngày nào giờ đều đã khôn lớn, trưởng thành. Với cặp Nghĩa – Đàn, dù chỉ còn "một nửa" (Đàn đã mất) cộng với sức khỏe không bằng bạn bè nhưng Nghĩa luôn kiên cường, lạc quan và yêu đời. Cậu cũng luôn là người con trai ngoan trong mắt bố mẹ.
"Quyết định tiến hành các ca mổ có nguy cơ tử vong cao là một quyết định cân não. Người thầy thuốc có nguy cơ mất hết danh tiếng và vướng vào nhiều chuyên khác nếu ca mổ thất bại. Tuy nhiên, nếu cho tôi quyết định lại tôi sẽ vẫn phải làm như vậy bởi vì tính mạng của người bệnh vẫn là điều đáng quý nhất, quan trọng nhất", TTND.GS.TS Nguyễn Thanh Liêm.
Còn với Cúc – An, dù hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ lại phải chạy thận để duy trì sự sống nhưng hai em luôn nỗ lực vươn lên, học hành thành người. Bà Trịnh Thị Bình, mẹ của cặp song sinh Cúc - An cho biết, cả hai con gái đều thi đỗ đại học và hiện tại đã tốt nghiệp ra trường, đi làm đóng góp cho đất nước.
Nhắc đến Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm - ân nhân của gia đình mình, bà Bình xúc động chia sẻ: "Gia đình chúng tôi luôn biết ơn Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm cùng đội ngũ y bác sĩ trong ê kíp mổ, chăm sóc Cúc – An năm đó. Họ chính là ân nhân, là "người cha thứ hai" sinh ra các cháu một lần nữa".
Còn với Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, ông cho biết, trong suốt cuộc đời làm nghề của mình, ông không thể nhớ hết được có bao nhiêu ca mổ, bao nhiêu bệnh nhân. Nhiều bệnh nhân ngày nào của ông giờ đã là bác sĩ, kỹ sư, công nhân; nhiều bệnh nhân và gia đình vẫn còn nhớ và liên hệ với ông. Điều đó khiến ông cảm thấy rất vui và xúc động.
"Điều tôi nhớ nhất không phải là những ca mổ mà là khi nhận được lời cảm ơn từ các bệnh nhân, từ gia đình của họ", vị Giáo sư chia sẻ.
Riêng với các cặp song sinh dính đôi, Giáo sư Liêm cho biết, ca mổ Nghĩa - Đàn và Cúc - An đều để lại những kỷ niệm khó quên đối với ông. Nghĩa - Đàn có một người ông rất đặc biệt. Ông là cựu chiến binh, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn nhưng ông tha thiết muốn cứu hai đứa cháu mình. Ông chạy đôn đáo khắp nơi kêu gọi sự giúp đỡ. Trong những ngày căng thẳng nhất, ông luôn điềm tĩnh, phối hợp tốt với các thầy thuốc.
"Một buổi tối năm 2008, tôi bất ngờ nhận được điện thoại của ông để chúc mừng vì tôi vừa được nhận giải thưởng Nikei châu Á. Điều đó khiến tôi rất xúc động", Giáo sư Liêm nói.
Với Cúc - An, vị Giáo sư chia sẻ, bản thân có rất nhiều kỷ niệm với các cháu từ lần đầu gặp sau khi sinh đến khi cả hai vào đại học. Các cháu phát triển tốt kể cả thể chất và tinh thần. Nhà nghèo, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nhưng cả hai cháu đều chăm học, một cháu học giỏi Toán, một cháu học giỏi Văn và bây giờ đã tốt nghiệp đại học.
"Trong nhiều năm, cứ đến thời khắc sau Giao thừa Tết Nguyên đán, tôi lại nhận được điện thoại chúc mừng năm mới của cặp song sinh dính đôi Cúc – An. Tôi rất vui vì được chứng kiến các cháu trưởng thành. Mỗi lần nhận điện thoại của các cháu, tôi đều rất xúc động", Giáo sư Liêm chia sẻ.
GS.TS Nguyễn Thanh Liêm tạm biệt cặp song sinh Cúc – An sau phẫu thuật trở về nhà. Ảnh tư liệu.
Tiếp tục đem những "kỳ diệu" trong y học để hồi sinh nhiều sự sống
Không chỉ phẫu thuật tách rời các cặp song sinh Nghĩa - Đàn; Cúc - An, trong suốt hành trình gắn bó với nghề Y, Giáo sư Liêm luôn tâm huyết với trẻ nhỏ, những bệnh nhi mắc bệnh hiểm nghèo.
Nhận định về sự phát triển của nhi khoa Việt Nam trong thời gian qua, GS.TS Nguyễn Thanh Liêm cho biết, nhi khoa Việt Nam đã có một lịch sử phát triển khá lâu dài. Với sự đóng góp của nhiều thế hệ bác sĩ, điều dưỡng, lĩnh vực chăm sóc sức khỏe trẻ em đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng.
Nếu như những thập kỷ trước, tỷ lệ mắc và tử vong do các bệnh tiêu chảy và suy dinh dưỡng ở trẻ em nước ta rất cao thì hiện nay tỷ lệ mắc thấp và hầu như không còn tỷ lệ tử vong. Đặc biệt, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi đã liên tục giảm thấp. Nhiều chuyên ngành sâu đã phát triển ngang tầm với các trung tâm lớn trên thế giới.
Theo Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm, phẫu thuật nội soi trẻ em Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng trong sự phát triển lĩnh vực này trên thế giới. Việt Nam đã và tiếp tục là địa chỉ đào tạo nhiều phẫu thuật viên nội soi trẻ em từ nhiều quốc gia.
Can thiệp tim mạch và phẫu thuật tim mạch đã phát triển rất nhanh chóng. Từ những bước đi chập chững ban đầu, hiện nay chúng ta đã có thể giải quyết được tất cả các loại dị tật tim mạch phức tạp, tỷ lệ thành công đạt gần 98% ngang với các trung tâm lớn ở Mỹ và Canada. Phẫu thuật ghép gan, ghép thận ngày nay đã được tiến hành thường quy ở Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Nhi đồng 2.
"Phẫu thuật tách rời các cặp song sinh dính liền cũng là một điểm sáng trong Nhi khoa Việt Nam. Hơn 10 cặp song sinh dính liền phức tạp đã được phẫu thuật thành công tại Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Nhi đồng 2 và một số bệnh viện khác đã đóng góp thêm nhiều kinh nghiệm quý báu cho một loại phẫu thuật phức tạp đòi hỏi sự phối hợp của nhiều kíp phẫu thuật", Giáo sư Liêm nhấn mạnh.
Hiện tại, dù đã ở tuổi ngoài 70 nhưng Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm không chọn nghỉ ngơi mà vẫn miệt mài nghiên cứu về tế bào gốc và tế bào miễn dịch để điều trị các bệnh nan y. Và ông coi đây là "hành trình mới đầy gian khổ và bất trắc".
Vị Giáo sư quan niệm: "Con đường đầy chông gai, thử thách, con đường còn rất ít người đặt chân tới nhưng như Lỗ Tấn đã nói: Trước đây vốn không có đường, con người đi nhiều dẫm lên mà thành đường thôi, hay như đồng bào tân tộc miền núi cũng thường nói: Khắc đi khắc đến!".
"Gia đình chúng tôi luôn biết ơn Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm cùng đội ngũ y bác sĩ trong ê kíp mổ, chăm sóc Cúc - An năm đó. Họ chính là ân nhân, là "người cha thứ hai" sinh ra các cháu một lần nữa", bà Trịnh Thị Bình, mẹ của cặp song sinh Cúc - An chia sẻ.
Nguyễn Mai