Hoàn thiện mục tiêu giáo dục - đào tạo theo hướng thực chất, công bằng và khả thi

Hoàn thiện mục tiêu giáo dục - đào tạo theo hướng thực chất, công bằng và khả thi
một giờ trướcBài gốc
Đại biểu Hà Ánh Phượng phát biểu thảo luận
Không để “thiết bị đi trước - con người theo sau” khi triển khai tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai
Góp ý vào nhóm mục tiêu liên quan đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị trong bối cảnh đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, đại biểu Hà Ánh Phượng cho rằng cần đặc biệt tránh tình trạng “thiết bị đi trước – con người theo sau” hoặc ngược lại. Đây là cảnh báo quan trọng, bởi:
- Dạy tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai khác hoàn toàn với dạy tiếng Anh như môn ngoại ngữ thông thường, kéo theo yêu cầu khác nhau về chương trình, phương pháp, đội ngũ giáo viên, thiết bị và môi trường học tập.
- Sự khác biệt giữa các cấp học (mầm non – tiểu học – THCS – THPT) đòi hỏi mô hình triển khai phải được thiết kế linh hoạt.
- Sự chênh lệch giữa các vùng miền về thiết bị, số lượng và chất lượng giáo viên, môi trường học tập ngoại ngữ, khả năng tiếp cận chương trình là rất lớn.
Theo dự thảo nghị quyết, đến năm 2030 có 30% và đến năm 2035 có 100% cơ sở giáo dục đủ thiết bị để triển khai mô hình này. Tuy nhiên, đại biểu nhấn mạnh rằng “đủ thiết bị” không đồng nghĩa với đủ điều kiện, nhất là khi Quyết định 2371/QĐ-TTg ngày 27/10/2025 về Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai” đã quy định rõ phạm vi, mức độ và lộ trình phân tầng cho từng vùng, từng cấp học.
Từ những phân tích đó, đại biểu đề nghị điều chỉnh lại mục tiêu theo hướng lượng hóa điều kiện thực chất hơn:“Đến năm 2035: 100% cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông đạt điều kiện dạy tiếng Anh chất lượng chuẩn quốc gia; trong đó tỷ lệ cơ sở triển khai mô hình tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai đảm bảo phù hợp điều kiện địa bàn và mục tiêu công bằng giáo dục.”
Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị:
- Phân bổ nguồn lực hợp lý cho đào tạo, bồi dưỡng và thu hút giáo viên tiếng Anh đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng.
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo điều kiện để các địa phương và cơ sở giáo dục được tự quyết định và chịu trách nhiệm trong việc đầu tư thiết bị dạy học.
- Tránh mua sắm đồng loạt gây lãng phí, nhanh lạc hậu, không phù hợp nhu cầu thực tế từng nơi.
Thận trọng với “tiếp cận trình độ ASEAN-4/G20” và danh mục ngành nghề trọng điểm trong giáo dục nghề nghiệp
Ở nhóm nội dung thứ hai liên quan đến giáo dục nghề nghiệp, đại biểu Hà Ánh Phượng bày tỏ quan ngại về mục tiêu đến năm 2035 phát triển: 60 trường tiếp cận trình độ ASEAN-4 và 06 trường “tiếp cận trình độ” các nước phát triển trong nhóm G20.
Theo đại biểu, nếu không quy định rõ “tiếp cận trình độ quốc tế” theo tiêu chí nào, chuẩn nào, khung kiểm định nào, mục tiêu này sẽ rất khó triển khai, khó nghiệm thu và dễ tạo ra nguy cơ “đầu tư hình thức”. Thực tế đã có giai đoạn một số đề án trường nghề “đạt chuẩn quốc tế” nhưng thiết bị đầu tư ít được khai thác, vận hành kém hiệu quả, gây lãng phí.
Về mục tiêu xây dựng 200 ngành, nghề trọng điểm; 15–20 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh vượt trội, đại biểu cho rằng dự thảo hiện chưa nêu căn cứ xác định danh mục ngành nghề này, bên cạnh đó, cũng cần có thống nhất với các cơ quan quản lý nhà nước và địa phương để làm rõ nhu cầu nhân lực 5 -10-15 năm tới và lưu ý các dự án đầu tư trọng điểm lớn của Nhà nước như đường sắt cao tốc, đường bộ cao tốc, điện hạt nhân, công nghiệp bán dẫn.... rất cần được ưu tiên.
Đại biểu phân tích thêm: trong bối cảnh Công nghiệp 4.0 và AI làm thay đổi cấu trúc nghề nghiệp rất nhanh, không nên chốt cứng danh mục cho cả 10 năm, mà cần cơ chế cập nhật định kỳ dựa trên dự báo nhu cầu nhân lực; bản đồ chuỗi cung ứng; nhu cầu doanh nghiệp; lợi thế vùng. Đại biểu cũng nêu hàng loạt hạn chế hiện nay của giáo dục nghề nghiệp từ các báo cáo hành chính để chỉ ra tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn kỹ năng nghề còn rất thấp; thiếu công cụ đánh giá kỹ năng nghề; khó thu hút chuyên gia tay nghề cao; nguồn lực bồi dưỡng còn hạn chế; quy mô đội ngũ giáo viên có xu hướng giảm.
Các con số cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ khi Thông tư số 26/2020/TT- BLĐTBXH đã ban hành danh mục ngành, nghề đào tạo cấp IV ở trình độ trung cấp, cao đẳng hiện có 669 ngành, nghề đào tạo trình độ cao đẳng và 897 ngành, nghề đào tạo trình độ trung cấp. Trong khi đó, mới chỉ có 156 ngành, nghề đã ban hành đề thi, kiểm tra, đánh giá kĩ năng nghề.
Từ đó, đại biểu đề nghị xem xét kỹ lưỡng và lượng hóa rõ tiêu chí để bảo đảm mục tiêu phù hợp thực tiễn và khả thi khi triển khai.
Bùi Hiển
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh
Nguồn Phú Thọ : https://baophutho.vn/hoan-thien-muc-tieu-giao-duc-dao-tao-theo-huong-thuc-chat-cong-bang-va-kha-thi-243642.htm