Ảnh minh họa.
Mười tháng năm 2025, kinh tế Việt Nam vận hành trong bối cảnh thế giới đầy biến động: lãi suất toàn cầu neo cao, căng thẳng địa chính trị chưa hạ nhiệt, chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng, nhu cầu tiêu dùng ở các nền kinh tế lớn suy yếu. Trong môi trường đầy bất định đó, Việt Nam vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là một thành tựu không nhỏ và là nền tảng quan trọng cho tăng trưởng trung hạn.
Lạm phát bình quân 10 tháng được kiểm soát ở mức dưới 3,27%, tỷ giá vận hành linh hoạt, dự trữ ngoại hối tiếp tục được củng cố khi cán cân thương mại duy trì thặng dư 19,56 tỷ USD. Chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt, góp phần ổn định thị trường tài chính và hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi.
Tổng thu ngân sách nhà nước 10 tháng 2025 đạt 2.182,7 nghìn tỷ đồng, vượt 11% dự toán cả năm, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh sự vững vàng của nguồn thu nội địa và hiệu quả trong quản lý tài chính công. Vốn đầu tư công thực hiện ước đạt 63,1% kế hoạch, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong nhiều năm, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực cho tăng trưởng tổng cầu và việc làm.
NHỮNG ĐIỂM SÁNG ĐÁNG CHÚ Ý TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Trong bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới bất ổn, việc duy trì và giữ vững ổn định vĩ mô là thắng lợi lớn của kinh tế Việt Nam, tạo điểm tựa niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Khu vực công nghiệp, đặc biệt công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu tiếp tục là động lực chủ đạo. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 10 tháng năm 2025 ước tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2024 (cùng kỳ năm 2024 tăng 8,3%); trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 10,5%, cao hơn 1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Nhóm sản phẩm điện tử, máy tính, thiết bị quang học và dệt may ghi nhận mức tăng khá.
Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 10/2025 đạt mức 54,5 điểm, mức cao nhất kể từ tháng 7/2024, tăng đáng kể so với 50,4 điểm của tháng 9/2025, phản ánh sức khỏe ngành sản xuất cải thiện mạnh mẽ so với tháng trước; niềm tin kinh doanh cũng đạt mức cao nhất trong 16 tháng.
Mười tháng năm 2025, xuất khẩu đạt 391 tỷ USD, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2024. Đáng chú ý, nhóm điện tử máy tính và linh kiện tăng 47,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác tăng 12,2%. Nhóm sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm cơ khí chính xác tăng trưởng mạnh, phản ánh xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu về Việt Nam. Khu vực doanh nghiệp FDI tiếp tục chiếm 75,9% kim ngạch xuất khẩu, giữ vai trò "mỏ neo" của khu vực sản xuất.
Tiêu dùng nội địa phục hồi khá tích cực. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng năm 2025 tăng 9,2%; loại trừ yếu tố giá tăng 7%, cao hơn 2,2 điểm phần trăm của cùng kỳ năm trước, cho thấy niềm tin của người dân đang quay trở lại sau giai đoạn dài thắt chặt chi tiêu. Thị trường du lịch phục hồi mạnh với gần 17,2 triệu lượt khách quốc tế tới Việt Nam, tăng 21,5%.
Các chỉ số niềm tin doanh nghiệp và tiêu dùng đều cải thiện. Theo khảo sát mới nhất, có 40,8% doanh nghiệp kỳ vọng kết quả sản xuất kinh doanh quý 4/2025 sẽ tốt hơn, cao hơn 7,2 điểm phần trăm so với tỷ lệ 33,6% của quý 3/2025, nhờ môi trường lãi suất thuận lợi và nhu cầu trong nước tăng.
Phía sau các chỉ số tăng trưởng khả quan, bức tranh kinh tế 10 tháng năm 2025 vẫn còn những gam màu trầm. Sức bật phục hồi của nền kinh tế thiếu tính lan tỏa giữa các khu vực. Tăng trưởng tín dụng đạt 15,09% so cuối năm trước và tăng 20,66% so với cùng kỳ năm trước nhưng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ và bất động sản; trong khi các ngành sản xuất chế biến, công nghiệp hỗ trợ, đổi mới sáng tạo lại thiếu vốn trung và dài hạn.
ĐÀ PHỤC HỒI CÒN LỆCH PHA VÀ THIẾU LAN TỎA
Năng lực hấp thụ vốn của doanh nghiệp nội địa còn yếu. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn gặp khó khăn trong tiếp cận tín dụng do yêu cầu tài sản đảm bảo, chi phí lãi vay và sức cầu thị trường chưa phục hồi mạnh. Dù số doanh nghiệp thành lập mới tăng 19,7%, nhưng vẫn có 105,4 nghìn doanh nghiệp rút khỏi thị trường, cho thấy khu vực doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, môi trường kinh doanh chưa thật sự khởi sắc.
Thị trường bất động sản dù có dấu hiệu ấm lên ở một số phân khúc, song thanh khoản còn thấp, tồn kho cao, nợ xấu tiềm ẩn vẫn là rủi ro với hệ thống tài chính. Nhiều dự án dang dở do vướng pháp lý chưa được tháo gỡ triệt để.
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu vẫn dựa nhiều vào khu vực FDI, trong khi khu vực tư nhân trong nước chưa đủ sức trở thành "trụ đỡ nội sinh" của nền kinh tế.
Điểm sáng lớn nhất của kinh tế Việt Nam 10 tháng 2025 là giữ được thế ổn định trong bất định, duy trì các cân đối lớn và kiểm soát tốt lạm phát. Nhưng ổn định chỉ là điều kiện cần, muốn phát triển, cần đột phá thể chế và niềm tin thị trường. Sự ổn định vĩ mô nếu không được chuyển hóa thành động lực đầu tư, tiêu dùng và đổi mới, sẽ trở thành "ổn định tĩnh", an toàn nhưng không sinh trưởng. Do đó, giai đoạn 2026-2030 cần được xác lập như một thời kỳ cải cách thể chế quyết liệt, với tinh thần thay đổi để phát triển.
ỔN ĐỊNH LÀ NỀN TẢNG, CẢI CÁCH LÀ ĐỘNG LỰC, NIỀM TIN LÀ CHẤT XÚC TÁC
Kinh tế Việt Nam 10 tháng 2025 đã chứng minh khả năng giữ ổn định trong biến động, nhưng thử thách phía trước không nhỏ: đà phục hồi chưa vững, nội lực doanh nghiệp còn yếu, cải cách thể chế chưa đạt kỳ vọng. Đây là thời điểm để Việt Nam chuyển từ tư duy điều hành an toàn sang chủ động kiến tạo, kiên định quan điểm: “Ổn định để vững vàng, cải cách để phát triển”, dám đổi mới, dám trao quyền và dám tin vào thị trường. Chỉ khi đó, nền kinh tế mới có thể bước qua giai đoạn ổn định thụ động, tiến tới tăng trưởng năng động, sáng tạo và bền vững hơn, đáp ứng với tầm nhìn một Việt Nam phát triển, tự cường, hội nhập sâu rộng, thịnh vượng vào giữa thế kỷ.
Ổn định vĩ mô là nền móng, nhưng tăng trưởng bền vững cần những động lực mới để đưa nền kinh tế vượt qua quán tính cũ. Đà phục hồi đang hình thành, song vẫn còn mong manh khi nhiều nguồn lực chưa được khơi thông. Đây là thời điểm để hành động chính sách mạnh mẽ hơn, thực chất hơn và cởi mở hơn, nhằm tạo xung lực mới cho doanh nghiệp, thị trường và người dân cùng chung nhịp phát triển.
Với tinh thần đó, có thể nhận diện năm nhóm chính sách trọng tâm cần triển khai quyết liệt để khơi thông nguồn lực, mở đường cho tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn tới.
Một là, tiếp tục duy trì ổn định vĩ mô đi đôi với khơi dậy niềm tin đầu tư. Chính sách tiền tệ nên giữ mặt bằng lãi suất hợp lý, điều hành tỷ giá linh hoạt, đồng thời phát đi tín hiệu chính sách rõ ràng để củng cố kỳ vọng của thị trường, đặc biệt với khu vực tư nhân.
Hai là, đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế, trọng tâm là cắt giảm điều kiện kinh doanh, phân cấp thực chất cho địa phương, đồng thời bảo vệ quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là điều kiện tiên quyết để tạo dựng môi trường đầu tư cạnh tranh, minh bạch và hấp dẫn.
Ba là, phát triển thị trường vốn trong nước, giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, mở rộng các kênh huy động vốn qua trái phiếu, quỹ đầu tư và các công cụ tài chính xanh. Việt Nam cần sớm hình thành hành lang pháp lý cho "tài chính bền vững", gắn với mục tiêu phát triển xanh và chuyển đổi năng lượng.
Bốn là, thúc đẩy năng suất nội sinh và đổi mới mô hình tăng trưởng. Nhà nước nên tập trung vào chính sách khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, phát triển nhân lực chất lượng cao, nâng cao giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu.
Năm là, thiết kế "tam giác chiến lược" cho phát triển, gồm kinh tế xanh - kinh tế số - kinh tế tri thức. Một nền kinh tế muốn vươn tới trình độ phát triển cao phải sở hữu cấu trúc tăng trưởng dựa trên tri thức, công nghệ và tính bền vững. Với Việt Nam, đây là thời điểm thích hợp để hình thành tam giác chiến lược phát triển mới gồm: kinh tế xanh - kinh tế số - kinh tế tri thức, như ba đỉnh tạo nên hệ động lực tương hỗ cho giai đoạn tăng trưởng mới.
Kinh tế xanh đặt nền tảng cho tăng trưởng bền vững, bảo đảm cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường, hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Kinh tế số mở ra không gian tăng năng suất, đổi mới mô hình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quản trị thông minh và thương mại điện tử, giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong khi đó, kinh tế tri thức là "mái vòm" của hệ tam giác, lấy con người, sáng tạo và tri thức làm trung tâm, nơi hội tụ của khoa học, giáo dục, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Khi ba trụ cột này được kết nối đồng bộ sẽ tạo nên bộ khung phát triển bền vững và tự cường cho Việt Nam, vừa thích ứng với chuyển đổi toàn cầu, vừa tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn. Điều cốt lõi là phải thiết kế thể chế, chính sách và nguồn lực phù hợp để từng trụ cột phát huy tối đa vai trò, qua đó hình thành bản sắc mới cho nền kinh tế Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
---
(*) Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê, Bộ Tài chính).
Nội dung chi tiết bài viết trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 45 ra ngày 10/11/2025 xin truy cập theo đường link dưới đây:
https://premium.vneconomy.vn/an-pham-tap-chi-kinh-te-viet-nam.html
TS. Nguyễn Bích Lâm (*)