Liên kết sản xuất, con đường đổi đời cho đồng bào dân tộc vùng cao Thái Nguyên

Liên kết sản xuất, con đường đổi đời cho đồng bào dân tộc vùng cao Thái Nguyên
một giờ trướcBài gốc
Một vườn sâm nam tại thôn Nà Cọ, xã Bạch Thông.
Xã Bạch Thông là một điển hình cho thấy liên kết sản xuất đã thực sự đi vào đời sống. Ở thôn Nà Cọ, vùng đất đồi từng khô cằn nay đã khoác lên mình “áo mới” với những đồi sâm nam xanh tốt. Mô hình do Hợp tác xã Phúc Thơm khởi xướng, dưới sự dẫn dắt của một phụ nữ dân tộc với quyết tâm biến mảnh đất cằn cỗi thành nguồn sinh kế bền vững.
Cách đây không lâu, cây sâm nam vẫn còn xa lạ với người dân nơi đây. Nhưng nhờ được hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ giống và tiếp cận thông tin thị trường dược liệu, sâm nam nhanh chóng được trồng trên các triền đồi. Sau một mùa trồng thử nghiệm, hợp tác xã đã thu hoạch hoa sâm nam và bắt đầu tiêu thụ sản phẩm. Nguồn thu từ hoa và dược liệu giúp một số hộ có thu nhập ổn định, đời sống thay đổi rõ rệt.
Không chỉ với sâm nam, tại xã Thành Công, vùng đồng bào dân tộc Sán Dìu, mô hình liên kết sản xuất cũng tạo nên chuyển biến mạnh mẽ khi cây chè trở thành “cây đổi đời”. Đến nay, tại xóm Vạn Phú, nơi trước đây đời sống nhiều hộ còn rất khó khăn, Hợp tác xã Trà Vạn Phú đã được hình thành. Người dân được hướng dẫn trồng, chăm sóc chè theo quy trình VietGAP, được hỗ trợ đầu tư kỹ thuật, tổ chức sản xuất tập trung và bao tiêu sản phẩm. Nhờ đó, năng suất và chất lượng chè được nâng lên, thu nhập của các hộ gia đình cải thiện rõ rệt, nhiều gia đình thoát nghèo bền vững.
Việc tham gia chuỗi liên kết từ sản xuất, sơ chế, đóng gói đến tiêu thụ giúp ổn định đầu ra, hạn chế rủi ro về giá cả như trước đây khi mỗi hộ tự làm, tự bán. Nhờ vậy, nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích, cải thiện kỹ thuật, có nguồn vốn tích lũy để nâng cao đời sống, xây dựng nhà cửa, chuồng trại, thu nhập ổn định quanh năm.
Sự thay đổi tư duy sản xuất từ tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hóa, từ manh mún sang liên kết là một bước tiến quan trọng. Khi người dân quen với sản xuất theo tổ nhóm, hợp tác xã, tuân thủ quy trình kỹ thuật và gắn chặt với doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế và tính bền vững được nâng lên rõ rệt.
Đa dạng mô hình sản xuất, nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong bối cảnh tỉnh Thái Nguyên sau sáp nhập có diện tích rộng hơn, dân số đông hơn, sự hỗ trợ từ chính quyền cùng các nguồn lực và chính sách dân tộc cũng có điều kiện huy động lớn hơn. Vì vậy, liên kết sản xuất không chỉ dừng lại ở từng xã nhỏ lẻ mà hoàn toàn có thể nhân rộng, lan tỏa khắp vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mở ra cơ hội phát triển toàn diện, từng bước thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa miền xuôi và miền núi.
Với tinh thần đổi mới, chủ động và sự đồng hành của chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp, các hợp tác xã, liên kết sản xuất đang trở thành con đường bền vững giúp đồng bào dân tộc miền núi Thái Nguyên thực sự có của ăn, của để và vươn lên trong cuộc sống.
PV
Nguồn Công Lý : https://congly.vn/lien-ket-san-xuat-con-duong-doi-doi-cho-dong-bao-dan-toc-vung-cao-thai-nguyen-505208.html