Nghị quyết 57-NQ/TW – “Nghị quyết khoán 10” của khoa học, công nghệ
Ngày 22/12/2024 – đúng ngày kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
80 năm trước, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân – tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam ra đời tại khu rừng Trần Hưng Đạo, tỉnh Cao Bằng. Đội quân anh hùng, đội quân cách mạng đã làm nên những chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Sau 80 năm, hiện nay, trong kỷ nguyên số, kỷ nguyên công nghệ đòi hỏi đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia công nghệ Việt Nam – những “chiến binh” của thời đại mới cũng phải nỗ lực, quyết tâm làm nên những thành tựu vang dội, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia hùng cường – sánh vai với bạn bè năm châu.
Nghị quyết số 57-NQ/TW là Nghị quyết của ý Đảng hòa quyện với lòng dân, thể hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ở thời điểm hội tụ tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Nghị quyết nhận được sự đồng lòng, ủng hộ của đông đảo Nhân dân, đặc biệt là các nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ngoài việc hoạch định rõ con đường phát triển khoa học, công nghệ của đất nước trong thời gian tới, Nghị quyết có rất nhiều "tính mới", tạo tiền đề cho sự phát triển khoa học công nghệ như: Chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học hay các mục tiêu cụ thể để áp dụng và ứng dụng những thành tựu trong nghiên cứu khoa học vào phát triển xã hội.
Nếu Nghị quyết số 10-NQ/TW năm 1988 được biết tới với tên gọi “Nghị quyết khoán 10” được xem là nghị quyết bản lề về đổi mới, quản lý kinh tế nông nghiệp và là cú hích mạnh mẽ cho nền sản xuất nông nghiệp, đưa nước ta phát triển với những thành tựu đáng ghi nhận thì Nghị quyết số 57 có thể coi như một “khoán 10” trong phát triển khoa học công nghệ, là kim chỉ nam cho hành động, tạo đột phá đưa nước ta bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Trong Dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIV cũng đã một lần nữa nhấn mạnh cụm từ “lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính” thể hiện quan điểm đúng đắn của Đảng ta khi hoạch định đường lối phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
Theo đó, khoa học công nghệ là nền tảng của sự phát triển, đổi mới sáng tạo là động lực chính, chuyển đổi số là tất yếu trong nền công nghiệp 4.0 cùng sự phát triển, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào mọi khía cạnh cuộc sống. Việc chuyển đổi số không chỉ để kết nối, xóa đi khoảng cách địa lý mà còn giúp kết nối ý tưởng và thực tiễn, giúp các giấc mơ sớm trở thành hiện thực.
Tác giả tại phòng thí nghiệm ở Trường kỹ sư Paris, ĐH Gustave Eiffel, Pháp.
Mong muốn được cống hiến cho đất nước luôn thường trực trong mỗi người Việt Nam xa xứ
Việt Nam hôm nay đã “thức giấc”, đã chuyển mình mạnh mẽ trở thành một trong 32 nền kinh tế lớn nhất thế giới, quy mô kinh tế tăng gần 100 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người tăng từ dưới 100 USD năm 1975 lên gần 5.000 USD năm 2024. Trong thành tựu vĩ đại của dân tộc đó có sự đóng góp quý báu và rất quan trọng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Trước bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm thực hiện thắng lợi hai mục tiêu 100 năm, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên hùng cường, lấy khoa học công nghệ làm đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu thì sứ mệnh của người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt lực lượng trí thức, khoa học, chuyên gia kiều bào cùng cần “gắng sức”, “gánh vác” cùng đất nước làm nên những điều phi thường.
Những năm qua có một làn sóng các trí thức kiều bào tiêu biểu trở về quê hương làm việc như GS. Vũ Hà Văn, PGS. TSKH. Phan Thị Hà Dương,… Trong tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cũng xuất hiện nhiều trí thức, tiêu biểu như GS. Trần Ngọc Anh ở Đại học Indiana, Mỹ. Điều đó cho thấy, người Việt khắp năm châu luôn hướng về Tổ quốc và Đảng và nhà nước cũng luôn trân trọng những ý kiến tư vấn, tham mưu của các trí thức kiều bào nhằm giúp đất nước nhanh chóng tiếp cận, tiệm cận với trình độ tiên tiến về khoa học công nghệ trên thế giới.
Bên cạnh đó, đông đảo thế hệ trẻ, nhà khoa học trẻ sau thời gian sinh sống, học tập và tu luyện ở nước ngoài cũng trở về quê hương để cùng chung tay đóng góp, dựng xây đất nước. Đây là nguồn lực quý báu của dân tộc cho thấy đa số thanh niên Việt Nam hiện nay dù ở trong hay ngoài nước cũng luôn giữ vững lý tưởng cách mạng, mang trong mình động lực dựng xây đất nước và luôn nỗ lực chứng minh rằng thanh niên là rường cột, tương lai của nước nhà.
Trước ngưỡng cửa kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chúng ta cũng đã được biết tới các chính sách, cơ chế đặc thù để thu hút các chuyên gia trong các lĩnh vực, không chỉ các lĩnh vực được ưu tiên trọng điểm trong giai đoạn hiện nay như đường sắt cao tốc, điện hạt nhân, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn mà còn mở rộng tới 11 nhóm công nghệ chiến lược và 35 nhóm sản phẩm công nghệ chiến lược giai đoạn 2025 – 2030 được ban hành theo Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ.
Chủ trương thu hút nhân tài khoa học công nghệ cũng được cụ thể hóa qua các văn bản như: Nghị định số 179/2024-NĐ/CP được Chính phủ ban hành vào cuối năm 2024 quy định chính sách thu hút, trọng dụng người tài năng làm việc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Tổ chức chính trị - xã hội hay chủ trương về chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc.
Ngày 22/6/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã ban hành Quyết định số 1412/QĐ-BKHCN về việc phê duyệt “Kế hoạch thu hút 100 chuyên gia giỏi trong và ngoài nước tham gia các chương trình, nhiệm vụ khoa học-công nghệ trọng điểm cấp quốc gia về trí tuệ nhân tạo (AI)”.
Những chủ trương, chính sách, hành lang pháp lý mới được ban hành đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm cao độ trong việc kiến tạo một đội ngũ trí thức, chuyên gia hàng đầu để dẫn dắt công cuộc phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số quốc gia.
Cần có lời giải đáp cho những băn khoăn, vướng mắc
Đoàn đại diện cộng đồng người Việt Nam ở Pháp đón Tổng Bí thư Tô Lâm trong chuyến thăm chính thức Cộng hòa Pháp, tháng 10/2024. (Tác giả thứ hai từ trái sang)
Thực tế đã chứng minh: Người Việt Nam dù ở đâu, dù hoàn cảnh sống có thể khác nhau nhưng lòng yêu nước luôn chảy trong huyết quản. Chính vì vậy, nếu có cơ hội được cống hiến cho đất nước đều sẽ sẵn sàng. Điều quan trọng là chúng ta cần tạo được cơ chế, môi trường và niềm tin để trí tuệ Việt hội tụ và tỏa sáng.
Để các chuyên gia, nhà khoa học trẻ về nước cống hiến, ngoài vấn đề tài chính, thu nhập thì cần có lời giải đáp các câu hỏi, băn khoăn, vướng mắc như: Công việc cụ thể, môi trường làm việc, cơ hội thăng tiến, phát triển sự nghiệp và khả năng hòa nhập với môi trường trong nước như thế nào?
Mỗi quốc gia sẽ có văn hóa công sở, quy định, thủ tục hành chính, cơ chế hoạt động khác nhau và ai cũng có những bỡ ngỡ khi bắt đầu công việc ở môi trường mới.
Ví dụ điển hình trong nghiên cứu khoa học việc đề tài nghiên cứu được công bố trên các tạp chí uy tín là điều rất vinh dự. Tuy nhiên, ở các quốc gia phát triển, ví dụ ở Pháp, nơi luôn đề cao “liêm chính khoa học”, nói cách khác là đạo đức trong nghiên cứu khoa học thì việc chạy theo số lượng công bố hàng năm là không có. Việc chạy theo thành tích để đạt chỉ tiêu dẫn đến nhiều hệ lụy hay nguy hiểm hơn là mua bán kết quả nghiên cứu chỉ để lấy số lượng.
Bên cạnh đó, bài học thực tiễn từ các quốc gia phát triển cho thấy bên cạnh các chính sách hợp lý thì con người mới chính là nguồn lực, động lực trung tâm, chủ yếu và quan trọng nhất cho sự phát triển của một dân tộc. Cần phải khơi dậy tinh thần yêu nước, khát khao cống hiến và ý thức về vai trò, trách nhiệm và tinh thần lý tưởng của mỗi cá nhân.
Ngoài ra cũng cần chính sách, cơ chế đặc biệt để chăm lo cho người thân, gia đình những tài năng, cá nhân được trọng dụng khi quyết định về nước bởi mỗi cá nhân đều mong muốn có hậu phương vững chắc để có thể toàn tâm, toàn ý công tác và cống hiến.
Để cộng đồng doanh nhân và trí thức kiều bào có thể phát huy vai trò trong kỷ nguyên mới của dân tộc, đặc biệt trong chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, cần sớm thành lập và đưa vào hoạt động mô hình “trung tâm nghiên cứu và phát triển” (R&D) trong các đơn vị sự nghiệp công lập, tập đoàn nhà nước và tư nhân, đặc biệt đối với một số ngành công nghiệp chiến lược, công nghệ cao, công nghiệp kết nối.
Trung tâm nghiên cứu và phát triển được hình thành với mục đích trực tiếp giải quyết các vấn đề gặp phải trong quá trình khai thác, sản xuất; phục vụ công tác chuyển đổi số, hiện đại hóa và tối ưu hóa công đoạn sản xuất. Mô hình này sẽ hỗ trợ tối đa việc tận dụng trí tuệ người Việt Nam, dần tiệm cận với đỉnh cao khoa học quốc tế, giúp đội ngũ chuyên gia trong nước từng bước tự chủ về công nghệ.
Việc thành lập “trung tâm nghiên cứu và phát triển” cũng góp phần giải quyết bài toán trọng dụng, thu hút và giữ nhân tài. Vừa thu hút nhà khoa học, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài vừa tạo tiền đề để thu hút các chuyên gia và bạn bè quốc tế đến làm việc và cùng chúng ta giải quyết các bài toán trong nước. Việc thu hút được các chuyên gia nước ngoài đến đầu tư, nghiên cứu cũng thể hiện rõ tinh thần ngoại giao đa phương mà Đảng ta đã đề ra.
Bên cạnh đó, công tác phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo nhân tài trẻ cũng cần chú trọng. Hiện nay, bên cạnh cộng đồng du học sinh thì người Việt Nam ở nước ngoài cũng đã dần xuất hiện thế hệ F1, F2... được sinh ra và lớn lên tại nước sở tại. Đây cũng là những nguồn lực quý của đất nước cần có chính sách phù hợp. Cần có những phương án cụ thể về "cơ hội nghề nghiệp" đủ hấp dẫn để giữ nhân tài sau khi về nước, tránh việc chảy máu chất xám, đặc biệt đối với các tài năng trẻ.
Việc phát hiện các tài năng trẻ có thể thông qua các cuộc thi, giải thưởng về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo… bám sát tình hình thực tế trong từng giai đoạn phát triển đất nước với mục đích thu hút các nhân tài thuộc lĩnh vực được ưu tiên.
Trong thế giới phẳng và công cuộc chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, việc cống hiến cho quê hương, đất nước có thể thực hiện ở khắp nơi trên thế giới chỉ cần mỗi công dân luôn hướng về Tổ quốc. Vì vậy, việc một bộ phận chọn ở lại nước ngoài sinh sống, công tác không đồng nghĩa với việc không đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Chính vì vậy, để thu hút và tận dụng tối đa nguồn lực từ lực lượng trí thức, chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài cần có một cơ chế quản lý phù hợp, linh hoạt, có một bộ phận/cơ quan trực tiếp quản lý, điều hành trong nước và đầu mối tại từng địa bàn có vai trò tập hợp và duy trì các hoạt động, quy tụ các giải pháp đối với từng vấn đề trọng yếu của đất nước.
Khi Đảng, Nhà nước và nhân dân cùng chung khát vọng, khi người Việt trong và ngoài nước kết nối cùng một tinh thần, một ý chí cống hiến dựng xây đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ hằng mong đợi, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, hùng cường vào giữa thế kỷ XXI.
Trần Lê Hưng (Trường Kỹ sư Paris – Đại học Gustave Eiffel, CH Pháp)