61% người Việt lo lắng việc mất hoặc không tìm được việc làm do AI
Báo cáo mới nhất “Sự phân cực lớn tiếp theo: Tại sao trí tuệ nhân tạo có thể làm gia tăng bất bình đẳng giữa các quốc gia” chỉ ra rằng, mặc dù AI mở ra những cơ hội phát triển quan trọng, các quốc gia có điểm xuất phát rất khác nhau trong quá trình chuyển đổi để nắm bắt lợi ích và quản lý rủi ro. Nếu không có các chính sách mạnh mẽ, những khoảng cách này có thể gia tăng, làm đảo ngược nhiều thập kỷ tiến bộ trong việc thu hẹp bất bình đẳng phát triển.
Châu Á – Thái Bình Dương, nơi sinh sống của hơn 55% dân số thế giới, đang đứng ở trung tâm chuyển đổi AI. Khu vực này hiện có hơn một nửa số người dùng AI toàn cầu, với dấu ấn đổi mới sáng tạo ngày càng mở rộng nhanh chóng, từ sự tăng trưởng của Trung Quốc chiếm gần 70% bằng sáng chế AI toàn cầu đến hơn 3.100 công ty AI mới được tài trợ tại sáu nền kinh tế. AI có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP hằng năm của khu vực thêm khoảng 2 điểm phần trăm và nâng năng suất lên tới 5% trong các lĩnh vực như y tế và tài chính. Chỉ riêng các nền kinh tế ASEAN cũng có thể đạt gần 1 nghìn tỷ USD GDP bổ sung trong thập kỷ tới.
Người trẻ tận dụng AI để tối ưu hóa công việc
Việt Nam nổi bật trong khu vực nhờ chiến lược quốc gia đầy tham vọng nhằm trở thành quốc gia dẫn đầu về AI vào năm 2030, với mục tiêu nằm trong top ba Đông Nam Á và top 50 toàn cầu về nghiên cứu và phát triển AI.
Tuy nhiên, cơ hội tăng trưởng này đi kèm với áp lực xã hội đáng kể. Theo bà Đỗ Lê Thu Ngọc, Trưởng Phòng Tăng trưởng bao trùm, UNDP tại Việt Nam, tác động của AI đặc biệt nghiêm trọng đối với giới trẻ. AI đang dần thay thế các công việc cơ bản mà người trẻ thường dùng làm bước đệm sự nghiệp như hành chính, lên lịch, soạn thảo văn bản, dịch thuật hay nghiên cứu. Điều này đồng nghĩa với việc giới trẻ đang bị tước đi cơ hội tiếp cận các công việc đầu vào quan trọng để xây dựng sự nghiệp.
Theo báo cáo, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tỷ lệ người dân lo lắng về việc mất việc làm hoặc không tìm được việc làm do AI cao nhất khu vực, với mức 61%. Trong khi đó, tại các quốc gia như Hàn Quốc, tỷ lệ này thấp hơn nhiều do họ đã có chiến lược đào tạo lại kỹ năng và đối phó với sự thay đổi nghề nghiệp.
Về vĩ mô, những quốc gia phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, dệt may hay lắp ráp sẽ chịu áp lực lớn. Việc mất việc làm ở các lĩnh vực này khó có thể chuyển đổi ngay sang các lĩnh vực khác, khi lợi thế cạnh tranh về nhân công giá rẻ đang mất dần trước sự xuất hiện của robot tích hợp AI.
Bên cạnh nỗi lo của người lao động, tốc độ ứng dụng AI tại các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang là một thách thức lớn. Theo báo cáo, dù có một hệ sinh thái khởi nghiệp sôi động, tỷ lệ sẵn sàng triển khai và tận dụng công nghệ AI của các doanh nghiệp lại thấp và có xu hướng giảm, từ 27% năm 2023 xuống còn 22% năm 2024. Thống kê về GenAI cho thấy 64% doanh nghiệp vẫn chưa ứng dụng hoặc không chắc chắn về việc sử dụng công nghệ này.
Việt Nam có vị thế tốt để tận dụng AI cho tăng trưởng bền vững và bao trùm
Dù AI được kỳ vọng có thể giúp tăng trưởng GDP thêm tới 2% thông qua việc tạo ra việc làm và ngành nghề mới, nếu không có sự chuẩn bị về hạ tầng kết nối, những lợi ích này sẽ chỉ tập trung ở khu vực thành thị, bỏ lại phía sau khu vực nông thôn và các nhóm yếu thế. Bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam cho rằng: “Các chính sách bao trùm, các khoản đầu tư có trọng điểm và quản trị AI có trách nhiệm là điều thiết yếu để đảm bảo AI trở thành nguốn lực thúc đẩy phát triển công bằng. Việt Nam đang có vị thế tốt để tận dụng AI cho tăng trưởng bền vững và bao trùm, nếu tiếp tục giải quyết các thách thức như sự khác biệt về kỹ năng số, chất lượng dữ liệu, và bao trùm số cho phụ nữ, các cộng đồng nông thôn và các nhóm dễ bị tổn thương”.
Những thông tin từ báo cáo “Đánh giá toàn cảnh trí tuệ nhân tạo” (AILA) của UNDP tại Việt Nam cho thấy, Chính phủ đã thể hiện ý chí chính trị mạnh mẽ, triển khai các chính sách và khoản đầu tư để thúc đẩy chuyển đổi số và ứng dụng AI trong các lĩnh vực then chốt. Sự phát triển nhanh chóng của hạ tầng số, bao gồm phủ sóng 4G gần như toàn quốc, triển khai 5G đang diễn ra và sự cải thiện đáng kể trong xếp hạng chính phủ điện tử toàn cầu của Việt Nam, đang hỗ trợ tiến trình này.
Báo cáo cũng lưu ý các rủi ro tiềm ẩn do AI gây ra. Hàng triệu công việc – đặc biệt là của phụ nữ và thanh niên – có nguy cơ bị tự động hóa, và những khoảng cách về kỹ năng, dữ liệu, và quản trị AI có thể hạn chế lợi ích từ AI. Trên toàn châu Á – Thái Bình Dương, những quốc gia đầu tư vào kỹ năng, năng lực tính toán và hệ thống quản trị hiệu quả sẽ có khả năng hưởng lợi nhiều nhất từ AI, trong khi những nước khác có nguy cơ tụt lại phía sau.
Mức độ sẵn sàng chuyển đổi số cũng khác nhau đáng kể trong khu vực. Các quốc gia như Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc đang đầu tư mạnh vào hạ tầng và kỹ năng AI, trong khi những nước khác vẫn đang củng cố quyền truy cập và kiến thức số cơ bản. Hạ tầng, kỹ năng, năng lực tính toán và năng lực quản trị hạn chế làm giảm tiềm năng lợi ích từ AI đồng thời tăng rủi ro, bao gồm mất việc làm, loại trừ dữ liệu và tác động gián tiếp như gia tăng nhu cầu năng lượng và nước toàn cầu từ các hệ thống sử dụng AI nhiều.
AI cũng đang chuyển đổi quản trị và dịch vụ công trong khu vực. Nền tảng Traffy Fondue tại Bangkok đã xử lý gần 600.000 báo cáo của công dân, giúp phản hồi nhanh hơn. Dịch vụ Moments of Life tại Singapore đã giảm thời gian thủ tục giấy tờ cho các bậc phụ huynh mới từ khoảng 120 phút xuống còn 15 phút. Tại Bắc Kinh, các mô hình số song sinh hỗ trợ quy hoạch đô thị và quản lý lũ lụt. Một nền tảng hỗ trợ dựa trên AI đang được thử nghiệm tại Việt Nam nhằm giúp công dân sử dụng 15 dịch vụ hành chính công trực tuyến thiết yếu. Những ví dụ này cho thấy tiềm năng của AI trong nâng cao quản trị và cung cấp dịch vụ công.
Tuy nhiên, chỉ một số ít quốc gia có quy định toàn diện về AI; và đến năm 2027, hơn 40% các vi phạm dữ liệu liên quan đến AI toàn cầu có thể xuất phát từ việc sử dụng AI tạo sinh sai mục đích, nhấn mạnh nhu cầu về các khuôn khổ quản trị vững chắc.
Đức Thuận