Học sinh lớp 1 trường Tiểu học Nguyễn Bỉnh Khiêm (TP.HCM) trong lễ khai giảng năm học 2025-2026. Ảnh: Quỳnh Danh.
Tiến sĩ Đo lường và Đánh giá Ngôn ngữ.
Nguyên Giám đốc Trung tâm Khảo thí và Đánh giá Chất lượng Đào tạo của Đại học Quốc gia TP.HCM.
Bà từng là tư vấn chiến lược cấp quốc gia của Đề án ngoại ngữ Quốc gia 2020 từ năm 2014.
Đẩy mạnh năng lực sử dụng tiếng Anh không phải chuyện riêng của Việt Nam. Trong khu vực, nhiều nước đã làm với mức độ thành công khác nhau.
Singapore dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ dạy học chính thức từ cuối thập niên 1980; Malaysia từng dạy Toán - Khoa học bằng tiếng Anh (PPSMI) trong giai đoạn 2002-2012 rồi điều chỉnh sang việc học song ngữ tự chọn.
Thái Lan có EP/MEP (chương trình dạy bằng tiếng Anh) ở một số trường; Indonesia cho phép dạy tiếng Anh ở tiểu học theo diện muatan lokal (nội dung do địa phương quyết định), nhưng từ 2013 không còn bắt buộc trên toàn quốc.
Gần đây nhất, Đài Loan triển khai chính sách “Bilingual Nation 2030”, thực hiện trong vòng 10 năm (2021-2030) với mục tiêu rất gần với chủ trương mới của Việt Nam - dùng tiếng Anh để học và làm việc, không chỉ để đi thi.
Vì vậy, nếu cần một điểm tham chiếu sát thời gian và cách đặt mục tiêu, Đài Loan là lựa chọn phù hợp để so sánh và rút kinh nghiệm cho Việt Nam.
Việt Nam bao phủ toàn hệ, Đài Loan đi từ đầu ra
Từ cái nhìn toàn cảnh đó, ta hãy xem xét hai bản đề án “Bilingual Nation 2030” của Đài Loan (Trung Quốc) và “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045” của Việt Nam (từ đây gọi tắt Bilingual 2030 và Đề án tiếng Anh 2035).
Có thể thấy, cả hai đề án cùng hướng tới năng lực dùng tiếng Anh cho học tập và việc làm. Tuy nhiên, cách thực hiện của mỗi đề án rất khác nhau.
Trong đó, Việt Nam ưu tiên phổ cập sớm: Dạy tiếng Anh bắt buộc từ lớp 1, khuyến khích dạy một số nội dung bằng tiếng Anh ở nơi đủ điều kiện. Đài Loan ưu tiên đầu ra: Nâng tỷ lệ học phần EMI (học bằng tiếng Anh) và tỷ lệ sinh viên đạt chuẩn ở bậc đại học, rồi lan tỏa xuống phổ thông theo mức sẵn sàng (trước hết là dạy môn tiếng Anh bằng tiếng Anh 100% và chỉ triển khai song ngữ ở trường đáp ứng điều kiện).
TS Vũ Thị Phương Anh chỉ ra ba bài học then chốt cho Việt Nam khi đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Ảnh: Phương Lâm.
Nói cách khác, Việt Nam đi theo logic bao phủ toàn hệ; còn Đài Loan đi theo logic kết quả đo được và mở rộng dần. Để thấy rõ hơn sự khác biệt này dẫn tới kết quả gì trong lớp học và quản trị, chúng ta cần nhìn vào cách đo lường, đội ngũ, học liệu và công nghệ.
Theo đó, Đài Loan gắn mục tiêu với các chỉ số kiểm chứng được, như tỷ lệ tiết Tiếng Anh dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, tỷ lệ trường có nội dung song ngữ, tỷ lệ tín chỉ EMI, tỷ lệ sinh viên đạt B2+…
Trong khi đó, Việt Nam thiên về mục tiêu bao trùm, tức 100% học sinh học Tiếng Anh từ lớp 1, đào tạo và bổ sung nhanh đội ngũ giáo viên, định hướng mở rộng dạy học bằng tiếng Anh.
Đây là hướng đi phù hợp với tư tưởng công bằng trong tiếp cận giáo dục, song để đạt hiệu quả, Việt Nam cần xây dựng hệ chỉ số rõ ràng, công bố định kỳ hàng năm nhằm kịp thời điều chỉnh và bảo đảm tính thực chất.
Gỡ nút thắt dạy ngoại ngữ lớp 1-3
Về đội ngũ giáo viên, Việt Nam nhấn mạnh quy mô đào tạo/bồi dưỡng và chuẩn năng lực tối thiểu. Đây hướng đi đúng nhưng sẽ mạnh hơn nếu kèm thực tập có giám sát (dự giờ - phản hồi - dạy lại) và cơ chế kèm cặp tại lớp.
Đài Loan đã làm khá triệt để phần này, bao gồm chương trình đồng giảng với trợ giảng/giáo viên tiếng Anh, coaching theo chu trình rõ ràng, minh chứng bằng bài dạy thực tế; kinh phí ràng buộc với kết quả (tỷ lệ EMI, tỷ lệ sinh viên đạt chuẩn).
Về học liệu và công nghệ, Đài Loan xây nền tảng học liệu chung và công cụ đánh giá nghe - nói trực tuyến, có hỗ trợ thiết bị cho vùng khó, nhờ vậy theo dõi được hai kỹ năng diễn đạt ngôn ngữ (nói/viết) vốn bị đánh giá là yếu và điều chỉnh sớm.
Đề án Việt Nam cũng đã nêu định hướng đổi mới đánh giá; bước tiếp theo cần bổ sung là tạo ngân hàng bài học mở cho lớp 1-3 (bài ngắn, trực quan, có video, tiêu chí quan sát - vấn đáp - sản phẩm) và lộ trình số hóa đánh giá nghe - nói theo năm.
Chủ trương “tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai trong trường học” chỉ thực sự có ý nghĩa khi lớp học đổi khác. Ảnh minh họa: Đinh Hà.
Từ các so sánh trên, có thể tóm lại 3 bài học then chốt cho Việt Nam:
Thứ nhất, hoàn toàn có thể giữ phổ cập sớm nhưng cần thước đo ít mà rõ, để cả hệ thống theo dõi tiến độ thật.
Thứ hai, nút thắt lớn nhất hiện nay nằm ở bậc tiểu học, đặc biệt là lớp 1-3. Ở giai đoạn này, trẻ mới làm quen với ngôn ngữ mẹ đẻ trong môi trường học thuật, kỹ năng đọc - viết tiếng Việt còn chưa vững, nên việc học thêm một ngôn ngữ mới như tiếng Anh đòi hỏi phương pháp và học liệu đặc thù.
Nếu không có học liệu phù hợp độ tuổi, cùng với chương trình bồi dưỡng, thực tập giảng dạy được giám sát chặt và cách đánh giá nhẹ nhàng, giáo viên rất dễ quay lại lối dạy truyền thống: Dịch từng câu - chép từng từ.
Hệ quả là mục tiêu hình thành năng lực giao tiếp sớm không đạt được, trong khi giáo viên lẫn học sinh đều chịu áp lực thành tích và kiểm tra hình thức.
Thứ ba, đại học đóng vai trò phải dẫn dắt. Việt Nam cần có một nhóm trường công bố tỷ lệ tín chỉ EMI và tỷ lệ sinh viên đạt chuẩn mỗi năm để xác lập mục tiêu cụ thể cho phổ thông và đưa ngược hỗ trợ chuyên môn xuống dưới.
Những kết luận ấy dẫn ta đến câu hỏi “Cần có lộ trình như thế nào trong 5 năm đầu để vừa đúng hướng, vừa khả thi?”
Đề xuất lộ trình giai đoạn 2025-2030
Các mốc dưới đây giữ nhịp kép, dưới lên từ lớp 1-3 và trên xuống từ một nhóm đại học dẫn dắt; đồng thời đo lường bằng bộ chỉ số gọn và rõ.
Chủ trương “tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai trong trường học” chỉ thực sự có ý nghĩa khi lớp học đổi khác.
Hướng đi khả thi là giữ tầm nhìn bao trùm nhưng triển khai bằng những bước nhỏ, có thể đo đạc được: Xây dựng ngân hàng bài học mở cho lớp 1-3, kèm cặp nghề nghiệp tại lớp, đánh giá nghe - nói đơn giản nhưng thường xuyên; cùng với đó, một nhóm đại học dẫn dắt, công bố thường niên tỷ lệ EMI và tỷ lệ sinh viên đạt chuẩn; đồng thời củng cố việc dạy tiếng Việt ở các lớp 1-2 và bảo đảm công bằng vùng miền bằng hạ tầng học liệu, thiết bị.
Kiên trì với những điều trên, tôi tin rằng đến 2030, chúng ta sẽ có những tiết học bằng tiếng Anh sống động, những chủ đề CLIL đơn giản mà hiệu quả, những học phần EMI vận hành ổn định. Và quan trọng nhất, một thế hệ học sinh thực sự dùng tiếng Anh để học và làm việc, chứ không chỉ học để đi thi.
Ngọc Bích