PGS.TS Nguyễn Hồng Thái.
Trong quá trình phát triển đường sắt cao tốc sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và liên vùng của Việt Nam. Đặc biệt tại các nhà ga của các tuyến đường sắt chạy qua sẽ tạo ra hiệu ứng phát triển kinh tế về du lịch, khu đô thị, giá trị đất đai của các khu vực, kích thích phát triển của các địa phương.
Ngành đường sắt phát triển thì là cơ hội rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi phát triển ngành đường sắt. Ví dụ công tác đào tạo, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ ngành công nghiệp đường sắt.
Thưa ông, vậy khi triển khai các dự án đường sắt lớn này Việt Nam cần lưu ý điều gì để tránh các rủi ro về vốn, công nghệ, hiệu quả khai thác?
- Phải khẳng định, Việt Nam trong thời gian rất dài chưa có kinh nghiệm, nghiên cứu phát triển đường sắt cao tốc, chắc chắn phải lựa chọn, sử dụng công nghệ của các nước phát triển. Tuy nhiên, tôi thấy Chính phủ, Quốc hội đối với sự phát triển của ngành đường sắt, ngoài tính cấp thiết thì còn quan tâm đến mức độ tự chủ của Việt Nam trong vấn đề phát triển đường sắt, đặc biệt trong quá trình sử dụng và khai thác tuyến đường sắt. Sự quan tâm đòi hỏi có sự tham gia đồng hành của các doanh nghiệp, đặc biệt các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, bản thân các tập đoàn, doanh nghiệp lớn này chưa có kinh nghiệm để tham gia nhiều lĩnh vực này. Tôi nghĩ cần có cơ chế, tạo môi trường hấp dẫn để các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Việt Nam tham gia vào việc phát triển của đường sắt trong lĩnh vực như: kết cấu hạ tầng, đầu máy toa xe… để tự chủ phần nào trong việc đầu tư, khai thác. Đây cũng là điều kiện nâng tầm vị thế của Việt Nam và cũng là điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu, phát triển tự chủ phần nào về vấn đề tham gia phát triển công nghệ.
Theo ông, Việt Nam có nên học hỏi mô hình quản lý và phát triển đường sắt ở các nước tiên tiến đã có nhiều kinh nghiệm như: Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp,…?
- Đây là vấn đề cực kỳ khó. Việc học hỏi tất nhiên là phải học hỏi, vì chúng ta chưa có kinh nghiệm phát triển lĩnh vực này. Có rất nhiều hội thảo với nhiều sự tham gia của các nhà khoa học có ý kiến, quan điểm khác nhau về vấn đề lựa chọn công nghệ nào cho đường sắt Việt Nam. Nhiều ý kiến khác nhau để lựa chọn. Nhưng chúng ta có kỳ vọng, mong muốn Việt Nam sẽ tiến tới tự chủ, tự chủ phần nào trong quá trình phát triển đường sắt. Đó là vấn đề cần “bài toán” kết hợp, đó là điều cần ý kiến của các nhà quản lý, nhà khoa học để đưa ra phương án phù hợp phát triển với điều kiện phát triển và mục tiêu chúng ta đề ra.
Đây là “bài toán” lớn, cần học hỏi nhiều kinh nghiệm. Như tôi được biết có rất nhiều quan điểm trái ngược, mỗi quan điểm đều có ưu, nhược điểm và ứng dụng nhất định.
Mô phỏng Đường sắt tốc độ cao. (Ảnh: AI thực hiện)
Hướng tới kỷ nguyên vươn mình, ông có thể chia sẻ kỳ vọng, mong muốn của mình về ngành đường sắt Việt Nam?
- Trong những năm gần đây bắt đầu có sự quan tâm nhất định từ cơ quan quản lý nhà nước về ngành đường sắt. Bởi lẽ, để phát huy khối lượng lớn, đặc biệt điều kiện địa lý Việt Nam trải dài, trong khi trục xương sống vận tải đường sắt phải là trục chính đảm nhận vị thế nhất định của phương thức vận tải. Còn lại vận tải về các trục nhánh thì sẽ là trách nhiệm của phương thức vận tải ô tô. Điều này đã được thể hiện từ trong quy hoạch, kế hoạch phát triển của Bộ GTVT (nay là Bộ Xây dựng). Đã thể hiện được vị thế, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với phát triển đường sắt. Đây là cơ hội phát triển phù hợp với điều kiện và xu thế phát triển của ngành đường sắt cũng như địa lý của Việt Nam.
Trước hết, tôi mong muốn chúng ta sẽ có hệ thống đường sắt đồng bộ; thứ hai là có công nghệ phù hợp, tiên tiến so với các nước; thứ ba, đường sắt sẽ đảm nhận khối lượng nhất định trong vấn đề vận tải.
Trong thời gian tới chúng ta có tuyến Hà Nội - Hải Phòng, Quảng Ninh - Lào Cai, để tạo ra những vận tải khối lượng lớn, đáp ứng nhu cầu phát triển, tạo hiệu ứng liên kết vùng trong quá trình phát triển, giảm thiểu gánh nặng cho các phương thức vận tải khác.
Trân trọng cảm ơn ông!
Mỵ Châu - Ngọc Nga (thực hiện)