Phù sa văn hóa!

Phù sa văn hóa!
15 giờ trướcBài gốc
Sau này nhiều thi nhân ca ngợi đất nước màu mỡ Ai Cập như “da thịt của nữ thần đất”. Dòng sông Nile như là “hơi thở của thần linh” vỗ về mảnh đất thêm phì nhiêu... “Sử thi Gilgamesh”, thiên anh hùng ca Lưỡng Hà - một trong những tác phẩm văn học cổ nhất kể, sau cơn đại hồng thủy, khi nước rút, lớp phù sa trải rộng khắp đồng bằng Tigris và Euphrates (tức vùng Lưỡng Hà - Mesopotamia) làm nên cuộc tái sinh vũ trụ, tạo ra một thế giới sáng láng, tinh khôi, mới mẻ.
Bình minh trên sông Hằng.
Trong tác phẩm “River God” (Thần Sông) của Wilbur Smith lấy bối cảnh Ai Cập cổ, viết về “nhân vật” phù sa như là một “món quà của thần linh”. Qua câu chuyện của một hoạn quan nô lệ tài năng tên là Taita và cuộc chạy trốn cùng với người dân Ai Cập khỏi cuộc xâm lược của bộ tộc Hyksos. Khi nước sông Nile dâng lên, Taita nói: “Thần đã mở lòng, ban cho chúng ta lớp da thịt đen của Mẹ Đất”. Tức coi phù sa là “da thịt” của đất đai cuộc đời. Tác phẩm xuất bản năm 1993, được chuyển thể thành phim, rất ấn tượng.
Chùm thần thoại cổ xưa người Việt kể về “Thần trụ trời”, thuở hỗn mang Thần đã ra công đào đất đắp thành trụ chống trời. Trời đất đã xa nhau. Mặt đất sáng sủa. Thần bèn phá trụ. Nơi thần đào đất thành biển. Nơi thần vãi đất đá ra thành núi đồi. Từ đó, mưa bào mòn đồi núi đem phù sa làm thành những cánh đồng. Thế nên các thi nhân sau này thường viết về dòng sông gắn liền với “phù sa”.
Như trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: “Những cánh đồng thơm ngát/ Những ngả đường bát ngát/ Những dòng sông đỏ nặng phù sa”… Theo nghĩa Hán Việt, “phù” nghĩa là nhẹ, trôi nổi; “sa” nghĩa là cát. Phù sa là các hạt nhỏ, mịn di chuyển theo các dòng nước sông suối, kênh rạch. Đất có chứa phù sa rất tốt cho cây trồng.
Theo khoa học địa chất, phù sa là vật liệu trầm tích được sông suối mang đi, vận chuyển và lắng đọng, nên còn được gọi là trầm tích phù sa. Bản chất và tính chất của phù sa phụ thuộc đất đá bị xói mòn trong quá trình chảy của sông. Phù sa có thể chứa cát, bùn, sỏi, chất hữu cơ, quặng khoáng sản sắt, đồng, vàng, đá quý… “Đãi cát tìm vàng”, thực chất là “đãi phù sa tìm vàng”.
Sông Hằng khởi nguồn từ dãy Himalaya ở bang Uttarakhand, Ấn Độ - nóc nhà của thế giới. Được ví như một vị thần khổng lồ đang say ngủ, dãy núi ẩn mình trong lớp tuyết dày, trắng xóa. Từ đây băng tan chảy ra, hình thành sông Hằng dài 2.510 km uốn lượn qua các thung lũng xanh tươi làm nên các đồng bằng màu mỡ, trước khi đổ vào vịnh Bengal.
Văn minh Ấn Độ cảm ơn sông Hằng, thế giới gọi luôn là “văn minh sông Hằng”. Ngoài là nguồn nước, sông Hằng như là mạch máu giao thông của cơ thể Ấn Độ. Lưu vực sông rộng lớn, tới 907.000 km2 bao trùm phần lớn lãnh thổ phía Bắc Ấn Độ và Bangladesh, đã dùng phù sa bồi đắp hai ven bờ để vùng đất thiêng này trở thành một trong những khu vực màu mỡ và đông dân nhất thế giới.
Theo thần thoại, sông Hằng là hiện thân của nữ thần Ganga - con gái Himavan - vị thần bảo hộ - Mẹ vĩ đại. Theo nghĩa bóng, sông Hằng đã bù đắp phù sa văn hóa để Ấn Độ có nền văn hóa tâm linh huyền bí, giàu có hàm lượng tôn giáo, tín ngưỡng bậc nhất thế giới. Kể rằng, để tránh nạn hạn hán khốc liệt, thần Shiva đã kéo dòng sông từ trên thiên giới cho chảy qua đầu tóc mình rồi đổ xuống trần gian. Thế nên, nói đến Ấn Độ phải nói đến sông Hằng. Dòng sông mang chức năng thanh lọc, tẩy rửa mọi điều xấu. Được uống nước sông là điềm may mắn cho cả người sống và người về với trời cao…
Ở ta, vùng đồng bằng sông Cửu Long được hình thành do phù sa sông Mê Kông bồi đắp trong khoảng 6.000 năm. Các nhà khoa học ví von, như một “băng chuyền” dòng Cửu Long miệt mài ngày đêm vận chuyển phù sa, bùn cát về bồi đắp tạo nên đồng bằng sông Cửu Long. Theo dòng chảy sông Hồng, phù sa tạo nên toàn bộ miền đồng bằng sông Hồng - vùng đồng bằng do phù sa bồi đắp vào loại tốt nhất thế giới.
Ở địa phận thôn Phù Sa, xã Viên Sơn (nay thuộc phường Sơn Tây, Hà Nội) có ngôi đình tên gọi Phù Sa thờ phò mã và công chúa - con vua Đinh Tiên Hoàng. Theo các nguồn tư liệu, phò mã tên Quán Sơn, là người khôi ngô, tuấn tú, tài năng, anh hùng nhất cõi. Vua Đinh Tiên Hoàng chọn chàng sánh đôi cùng công chúa Phương Dung. Giúp nước đánh xong quân Tống xâm lược, đất nước yên bình, phò mã cùng công chúa về quê Phù Sa chiêu dân lập ấp. Phương Dung dạy dân trồng dâu, nuôi tằm...
Khi phò mã và công chúa mất, được nhân dân Phù Sa lập đền thờ. Lễ hội đình Phù Sa cầu cho quốc thái dân an, vạn vật tốt tươi, được tổ chức vào ngày 14 tháng Giêng có lễ rước nước, lấy nước sông Hồng, rước lên kiệu, đi quanh làng… Nước sông Hồng đỏ nặng phù sa. Một ý nghĩa thật hay, sâu lắng, nhân văn: rước nước là rước phù sa, rước sự màu mỡ may mắn, phì nhiêu hạnh phúc…
Khi Lý Công Uẩn (thế kỷ XI) dời đô ra Thăng Long, một số nghệ nhân gốm làng Bồ Bát (xã Yên Thành, nay thuộc xã Yên Mô, Ninh Bình) theo vua ra kinh đô. Thấy vùng ven sông Hồng có đất tốt, họ dừng lại lập làng, mở lò, dạy dân nghề gốm, và đặt tên là Bát Tràng (gồm “Bồ Bát” và “Minh Tràng” - tên hai làng cũ hợp lại).
Truyền thuyết kể các cụ tổ đi dọc bờ sông Hồng thì gặp 72 đụn đất sét trắng, loại đất quý tạo gốm và những sản phẩm đặc biệt. Các cụ dừng lại, gây dựng nên Bạch Thổ phường, tức phường làm nghề gốm từ đất trắng kia. Thứ đất trắng ấy chính là phù sa quý có được từ sự bào mòn, va đập, cọ xát trong mưa nguồn từ miền đá trắng ở đâu đó trên miền thượng du xa xôi…
Sông Hồng đỏ nặng phù sa.
Không có phù sa, không có đồng bằng châu thổ, cũng không có các nền văn minh gắn liền với các dòng sông mẹ. Tất yếu phù sa chảy vào văn học để trở thành các biểu tượng đa nghĩa, về sự bồi đắp, về sự nuôi dưỡng, về thời ký ức xa xưa, sự nhẫn nại bền bỉ, lòng trung hậu, vị tha.
Trong “Trăm năm cô đơn” nổi tiếng, nhà văn Gabriel García Márquez mô tả vùng Macondo sau những trận mưa lớn, thì “Khi trời tạnh, mặt đất phủ một lớp phù sa lấp lánh, như thể thời gian cũng tan ra thành đất”. Thì ra, phù sa cũng là ký ức lịch sử, là sức sống âm thầm mà mãnh liệt giúp con người vượt qua cô đơn và quên lãng.
Pablo Neruda - nhà thơ Chile, trong “Canto General” (Bài ca chung) - bộ sử thi vĩ đại, viết: “Từ trong đất bùn, ta đứng dậy/ Mang hương vị phù sa Tổ quốc”. Theo vậy, mỗi con người được chắt ra từ cuộc sống (đất bùn) để mang tư tưởng phù sa nhân dân mạnh mẽ, muôn đời và luôn tươi rói.
Trong “The Grapes of Wrath” (Chùm nho uất hận), John Steinbeck kể về tình trạng người nông dân Mỹ bị mất đất do thiên tai hạn hán, bão lũ. Họ nhớ về “những cánh đồng được phủ bởi lớp đất phù sa mềm như hơi thở của mẹ”. Thì ra phù sa đồng bằng luôn sống trong ký ức con người. Phù sa cho họ sự sống, sức sống. Phù sa mất cũng là mất đi điểm tựa cuộc đời.
Cuốn sách ám ảnh day dứt một ý thức nhân văn, nhân bản của con người về cội nguồn, về ứng xử với đất đai, xứ sở. Không chỉ nhận Giải thưởng Sách Quốc gia, Giải thưởng Pulitzer, tác phẩm còn giúp tác giả nhận Giải thưởng Nobel Văn học năm 1962.
Trong “Chiều sông Thương”, nhà thơ Hữu Thỉnh có những câu rất hay, ân tình về “phù sa”: “hạt phù sa rất quen/ sao mà như cổ tích…/ dâng cho mùa sắp gặt/ bồi cho mùa phôi phai…”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, trong “Hạt gạo làng ta” đã sớm triết lý sâu sắc: “Hạt gạo làng ta/ Có vị phù sa/ Của sông Kinh Thầy...”. Nhạc sĩ Phạm Tuyên trong bài hát “Khúc hát ru người mẹ trẻ” sâu lắng, nhân hậu: “Đôi làn môi con/ nghiêng về vú mẹ/ như cây lúa nhỏ/ nghiêng về phù sa…”.
Trong cuộc thi tiểu thuyết của Thời báo văn học, nghệ thuật mới đây (trao giải ngày 10/10/2025), tiểu thuyết “Phù sa máu” của Trần Trọng Tân là một ẩn dụ nghệ thuật mời gọi khám phá, tìm hiểu về cuộc đời hôm qua và hôm nay. “Máu” là biểu tượng đa nghĩa, thậm chí đối lập nhau, quý giá thiêng liêng vô cùng, vì có gì quý hơn máu đâu (với người lương thiện). Nhưng cũng là biểu hiện của tính cách tàn bạo (sự “khát máu” của kẻ thù).
Đây là tiểu thuyết hay, hấp dẫn, không chỉ ở tình huống, nhân vật, còn ở giọng văn, ở sự nêu ra các nguyên lý đời sống, các triết lý về cách sống…
Nguyễn Thanh Tú
Nguồn VNCA : https://vnca.cand.com.vn/ly-luan/phu-sa-van-hoa--i786486/