Nguồn lực hơn 1.167 tỷ đồng cho Chương trình giảm nghèo bền vững tại Thái Nguyên
Giảm nghèo bền vững không chỉ là mục tiêu kinh tế – xã hội, mà còn là minh chứng sống động cho tinh thần nhân văn và nguyên tắc “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Với vai trò là trung tâm vùng trung du miền núi Bắc Bộ, tỉnh Thái Nguyên kiên trì, sáng tạo và quyết liệt triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025, hướng tới phát triển bao trùm, toàn diện.
Thực hiện Quyết định 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về giảm nghèo bền vững, Thái Nguyên xác định đây là một trong ba chương trình trọng điểm quốc gia giai đoạn 2021–2025. Ngày 30/6/2022, UBND tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Kế hoạch số 101/KH-UBND về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh.
Tổng nguồn lực cho Chương trình ước đạt hơn 1.167 tỷ đồng, bao gồm ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương và nguồn xã hội hóa. Trong đó, gần 40% vốn được ưu tiên đầu tư cho hạ tầng thiết yếu tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phần còn lại tập trung vào hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông thôn.
Thái Nguyên xem giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên, mà còn là yêu cầu chiến lược để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững. Các chính sách được triển khai sâu rộng, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường của người dân, kết hợp hài hòa giữa hỗ trợ của Nhà nước và nỗ lực vươn lên của cộng đồng.
Tỉnh đã tổ chức nhiều dự án và tiểu dự án thành phần gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Môi trường, nhiều dự án đạt hiệu quả rõ rệt: Dự án đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội tại các huyện nghèo, tập trung vào cơ sở hạ tầng thiết yếu và liên kết vùng ở các xã Bằng Vân, Nà Phặc, Hiệp Lực, Thượng Quan, Cao Minh, Ngân Sơn, Bằng Thành, Nghiên Loan.
Bên cạnh đó, các dự án đa dạng hóa sinh kế, phát triển mô hình giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất và cải thiện dinh dưỡng; dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo nghề cho người lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo và thu nhập thấp cũng được triển khai hiệu quả.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tiếp tục phát huy hiệu quả. Trước khi sáp nhập, cả Thái Nguyên và Bắc Kạn cơ bản hoàn thành mục tiêu giai đoạn 2021–2025, nhiều chỉ tiêu vượt kế hoạch; sau hợp nhất, Thái Nguyên có 77 xã triển khai chương trình, tạo nền tảng vững chắc cho mục tiêu giảm nghèo toàn diện.
Những nỗ lực đồng bộ đã mang lại kết quả tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều toàn tỉnh giảm từ 10,29% đầu năm 2022 xuống còn 5,46% vào cuối năm 2024, bình quân mỗi năm giảm 1,61%. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 19,87% xuống 11,20%, tương đương 8,67%. Dự kiến đến cuối năm 2025, toàn tỉnh Thái Nguyên còn khoảng 19.679 hộ nghèo, chiếm 4,66% dân số.
Xã Yên Phong: Từ đồi núi khó khăn đến khát vọng thoát nghèo
Yên Phong là một xã vùng sâu của tỉnh Thái Nguyên với địa hình chủ yếu là đồi núi, giao thông đi lại còn nhiều khó khăn. Những yếu tố này từng là rào cản lớn trong phát triển kinh tế – xã hội, khiến tỷ lệ hộ nghèo luôn ở mức cao. Tuy nhiên, với ý chí và quyết tâm của vùng đất cách mạng an toàn khu (ATK), Yên Phong đã biến thử thách thành động lực để vươn lên. Những sườn đồi dốc giờ đây trở thành lợi thế để phát triển rừng trồng và các cây đặc hữu như quế, chè, dược liệu.
Nhờ nguồn vốn hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia, cấp ủy và chính quyền địa phương đã lồng ghép nhiều chính sách, giúp người dân phát triển sinh kế phù hợp với điều kiện thực tế. Các chính sách về giảm nghèo được tỉnh xây dựng toàn diện, đa dạng, giải quyết các nhu cầu thiết yếu của người nghèo như: đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ y tế, giáo dục, nhà ở, đất ở, nước sinh hoạt, hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm. Toàn bộ hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở đều vào cuộc, chỉ đạo xuyên suốt.
Nếu như trước đây, công tác giảm nghèo chủ yếu tập trung vào hỗ trợ trực tiếp, “cho con cá” để người dân vượt qua khó khăn trước mắt, thì nay cách làm đã đổi mới theo hướng “trao cần câu”, giúp người dân tự lực vươn lên. Nhiều mô hình trồng rừng kinh tế, chăn nuôi dê, trồng quế, trồng chè đã được triển khai hiệu quả, tạo việc làm và thu nhập ổn định. Đồng thời, hạ tầng nông thôn như đường giao thông, điện và nước sinh hoạt cũng được đầu tư, góp phần thay đổi diện mạo vùng cao.
Minh họa rõ nét cho cách làm này là gia đình ông Nông Đức Thái, thôn Khau Cưởm, xã Vĩnh Thông. Năm 2024, gia đình ông được hỗ trợ một con trâu giống sinh sản từ nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021–2025. Nhờ chăm sóc kỹ lưỡng và tuân thủ hướng dẫn kỹ thuật, con trâu phát triển khỏe mạnh và đã sinh sản, trở thành nguồn sinh kế bền vững. Chia sẻ trên báo Thái Nguyên, ông Thái cho biết, bên cạnh việc thực hiện quy trình chăm sóc và phòng bệnh theo khuyến cáo của cán bộ thú y, ông còn chủ động tìm hiểu thêm kiến thức từ các nguồn khác để áp dụng hiệu quả hơn, nhờ đó mang lại nguồn thu ổn định cho gia đình.
Không chỉ dừng lại ở hỗ trợ đơn lẻ, Yên Phong đang hướng tới phương thức liên kết sản xuất, tạo sinh kế cộng đồng. Năm 2024, thôn Nà Ngà thành lập Tổ hợp tác trồng chè với 8 hộ tham gia, trong đó có cả hộ nghèo và cận nghèo. Người dân tham gia mô hình được hỗ trợ giống, phân bón, máy móc chế biến và tập huấn kỹ thuật, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất.
Phát huy tiềm năng đất rừng, xã Yên Phong tập trung phát triển lâm nghiệp và nông nghiệp sạch, hướng đi bền vững trong chiến lược dài hạn. Ngoài trồng keo, mỡ, quế, người dân còn tham gia mô hình quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn của Hội đồng Quản lý Rừng (FSC), với hàng trăm héc-ta đã được cấp chứng chỉ, mở ra cơ hội đưa gỗ rừng trồng ra thị trường quốc tế. Mô hình trồng sâm bố chính trên 5ha đang được triển khai, dự kiến mở rộng thêm 2ha trong năm 2025, hứa hẹn mang lại giá trị kinh tế cao.
Song song với lâm nghiệp, xã Yên Phong phát triển sản xuất lúa hữu cơ với quy mô 46,7ha, trong đó 16,7ha đã được cấp chứng nhận, phần còn lại đang hoàn thiện hồ sơ. Người dân tham gia mô hình chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất theo quy trình, tạo ra sản phẩm sạch, nâng cao giá trị và uy tín nông sản địa phương.
Nhờ cách làm thiết thực và hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo ở Yên Phong giảm trung bình 3–4% mỗi năm. Xã không còn hộ đói, không có hộ tái nghèo, đời sống người dân ngày càng được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người tăng qua từng năm, nhiều hộ đã vươn lên khá giả nhờ phát triển kinh tế rừng và chăn nuôi.
Năm 2025, Yên Phong đặt mục tiêu giảm ít nhất 52 hộ nghèo và 81 hộ cận nghèo, đưa tỷ lệ hộ nghèo xuống khoảng 7,6%. Tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là hơn 2,2 tỷ đồng, trong đó gần 1,5 tỷ đồng dành cho các dự án đa dạng hóa sinh kế. Xã cũng hướng tới giải quyết việc làm cho 140 lao động, trong đó có 16 người đi làm việc ở nước ngoài có thời hạn, mô hình này đang phát huy hiệu quả tại nhiều thôn, bản.
Ông Hà Văn Hàm, Phó Chủ tịch UBND xã Yên Phong chia sẻ trên báo Thái Nguyên ngày 11/11, công tác giảm nghèo được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của toàn hệ thống chính trị. Xã tập trung phát triển các mô hình phù hợp với điều kiện tự nhiên và thế mạnh địa phương như nuôi dê sinh sản, trồng chè, sản xuất lúa hữu cơ và xuất khẩu lao động. Giảm nghèo không chỉ là hỗ trợ, mà là trao cơ hội để người dân tự đứng lên.
Nhờ triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, phát huy lợi thế đất đồi rừng và cây trồng đặc hữu, công tác giảm nghèo ở Yên Phong đã mang lại chuyển biến rõ nét. Sự đồng lòng giữa chính quyền và người dân giúp xã vùng sâu này từng bước ổn định đời sống, mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm và thu nhập. Khát vọng thoát nghèo đang được Yên Phong cụ thể hóa bằng những cách làm thiết thực và hiệu quả, góp phần đổi thay cuộc sống người dân nơi đây.
Hướng tới hoàn thiện hạ tầng, ổn định đời sống cho người dân
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên ngày 23/9 vừa qua đã xác định rõ mục tiêu đến năm 2030: Tỉnh trở thành trung tâm công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1–1,5% mỗi năm; 95% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; 100% xã đặc biệt khó khăn có trường dân tộc nội trú hoặc bán trú. Những chỉ tiêu này cho thấy sự quan tâm đặc biệt của tỉnh đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi còn nhiều khó khăn nhưng cũng có nhiều tiềm năng.
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng xác định ưu tiên phát triển hạ tầng giao thông, điện và viễn thông cho vùng sâu, vùng xa, được coi là "chìa khóa" để mở đường, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững ở khu vực miền núi. Đây chính là điểm mà người dân rất phấn khởi, bởi hạ tầng hoàn thiện không chỉ giúp đi lại thuận lợi, mà còn mở ra cơ hội phát triển sinh kế, trao đổi hàng hóa và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong thời gian tới, Thái Nguyên tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ dân sinh và sản xuất tại các xã đặc biệt khó khăn, ưu tiên các giải pháp nâng cao thu nhập thông qua phát triển kinh tế – xã hội, hỗ trợ nghề nghiệp, giải quyết việc làm và xây dựng các mô hình sinh kế hiệu quả. Các mô hình này đặc biệt gắn với Chương trình OCOP, nhằm giúp người dân chủ động vươn lên thoát nghèo bằng chính lợi thế địa phương. Đồng thời, tỉnh triển khai kịp thời các chính sách hỗ trợ, tăng cường tuyên truyền để nâng cao nhận thức và tinh thần tự lực của người dân.
Gian hàng trưng bày của tỉnh Thái Nguyên tại Hội chợ Mùa thu lần thứ nhất năm 2025. Ảnh: Thu Thảo/Mekong ASEAN
Song song với đó, tỉnh chú trọng nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn, lồng ghép hợp lý giữa các chương trình, công khai minh bạch, ưu tiên đúng đối tượng và địa bàn, tránh dàn trải, hình thức. Công tác xã hội hóa được đẩy mạnh, huy động doanh nghiệp và các tổ chức xã hội tham gia hỗ trợ hộ nghèo, đối tượng yếu thế. Đồng thời, tỉnh kiện toàn công tác đào tạo cán bộ, rà soát hộ nghèo và quản lý dữ liệu làm cơ sở hoạch định chính sách an sinh xã hội phù hợp, hiệu quả và bền vững.
Với tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau", Thái Nguyên đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu giảm nghèo bền vững bằng những giải pháp cụ thể, đồng bộ và mang đậm giá trị nhân văn. Sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, cùng nỗ lực của mỗi người dân, giúp Thái Nguyên chuyển mình mạnh mẽ, tiến gần hơn tới mục tiêu phát triển xanh, bao trùm và bền vững.
Thu Trang