Điểm trường Tiểu học Cao Biền, xã Phú Thượng, có 100% học sinh là người dân tộc Dao, luôn được các cấp quan tâm đầu tư.
Nhằm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2025 - 2030, tỉnh Thái Nguyên đã triển khai đồng bộ các dự án phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng DTTS, trong đó nổi bật là Dự án 5 về phát triển giáo dục, đào tạo.
Trong khuôn khổ Dự án 5, Tiểu dự án 1 được Thái Nguyên tập trung thực hiện với mục tiêu đổi mới hoạt động, củng cố và phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, trường có học sinh bán trú, đồng thời tổ chức xóa mù chữ cho người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây được xem là trụ cột quan trọng để vừa nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, vừa bù đắp những “khoảng trống” về dân trí tại nhiều địa bàn đặc biệt khó khăn.
Đến nay, tỉnh đã đầu tư xây dựng 44 công trình trường học thuộc hệ thống trường dân tộc nội trú, bán trú và các trường có học sinh bán trú. Việc kiên cố hóa trường lớp giúp tạo dựng môi trường học tập khang trang, an toàn, giảm đáng kể tình trạng học nhờ, học tạm, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Cùng với đó, 93 trường học được trang bị hạ tầng công nghệ thông tin, từng bước phục vụ cho đổi mới phương pháp giảng dạy và chuyển đổi số trong giáo dục.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin đã giúp giáo viên vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với kho học liệu số, bài giảng điện tử, tổ chức dạy học trực tuyến khi cần thiết. Học sinh được làm quen sớm với các phương thức học tập hiện đại, rút ngắn khoảng cách tiếp cận tri thức giữa vùng cao và vùng thuận lợi, từng bước hội nhập với xu thế giáo dục số.
Lớp học xóa mù chữ cho bà con dân tộc Mông ở bản Làng Ươm và xóm Lân Vai, xã Dân Tiến.
Song song với phát triển cơ sở vật chất trường học, tỉnh Thái Nguyên đặc biệt chú trọng công tác xóa mù chữ và giáo dục thường xuyên cho người lớn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Toàn tỉnh đã tổ chức 173 lớp xóa mù chữ, thu hút trên 4.000 người dân tham gia học tập. Đây không chỉ là con số về lớp học, mà còn là minh chứng cho nỗ lực nâng cao dân trí một cách bền bỉ, lâu dài, giúp người dân từng bước tiếp cận thông tin, chính sách, pháp luật và tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, đời sống.
Cùng với đầu tư cơ sở vật chất, tỉnh triển khai đầy đủ các chính sách hỗ trợ học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định. Các chế độ miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập, tiền ăn cho học sinh bán trú, nội trú được thực hiện kịp thời, góp phần giảm gánh nặng cho gia đình nghèo, tạo điều kiện để học sinh yên tâm đến trường, hạn chế tình trạng bỏ học vì khó khăn kinh tế.
Một yếu tố quan trọng khác là chất lượng đội ngũ giáo viên công tác tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được nâng lên. Giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm phù hợp với điều kiện đặc thù vùng cao. Nhiều thầy cô gắn bó lâu dài với địa bàn khó khăn, trở thành chỗ dựa tin cậy cho học sinh cả trong học tập lẫn đời sống tinh thần.
Nhiều trường học vùng cao trên địa bàn tỉnh được hỗ trợ học phẩm để phục vụ học tập.
Nhờ sự quan tâm đồng bộ từ cơ sở vật chất, chính sách hỗ trợ đến đội ngũ giáo viên, tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng ổn định. Công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, duy trì phổ cập tiểu học và trung học cơ sở tiếp tục được giữ vững ở hầu hết các địa phương. Đây là tiền đề quan trọng để nâng mặt bằng dân trí và chuẩn bị nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội những năm tới.
Không chỉ dừng lại ở truyền thụ kiến thức văn hóa, các nhà trường còn chú trọng giáo dục kỹ năng sống, ý thức công dân và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong học sinh. Thông qua các hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm, sinh hoạt tập thể, các em được bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, tự tin, tôn trọng pháp luật, từng bước hình thành nhân cách và khát vọng vươn lên.
Thực tiễn cho thấy, khi chất lượng giáo dục được cải thiện, nhận thức của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Phụ huynh ngày càng quan tâm hơn đến việc học của con em, coi tri thức là con đường lập thân, lập nghiệp bền vững. Nhiều gia đình đã chủ động tạo điều kiện để con tiếp tục học lên các bậc học cao hơn, mở ra cơ hội thoát nghèo từ gốc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số của Thái Nguyên vẫn đối mặt với không ít khó khăn như điều kiện đi lại ở một số địa bàn còn phức tạp, đời sống người dân chưa thật sự ổn định, cơ sở vật chất ở một số trường chưa đồng bộ. Tuy nhiên, với quyết tâm chính trị cao và cách làm bài bản, tỉnh đang từng bước tháo gỡ những “nút thắt” này bằng các giải pháp dài hơi, căn cơ.
Thời gian tới, Thái Nguyên tiếp tục ưu tiên nguồn lực cho giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tập trung vào các nội dung then chốt như đầu tư hạ tầng trường lớp, đẩy mạnh chuyển đổi số, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, mở rộng xóa mù chữ và học tập suốt đời cho người dân. Mục tiêu xuyên suốt là bảo đảm mọi người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ vùng cao, đều được tiếp cận giáo dục trong điều kiện ngày càng tốt hơn.
Có thể khẳng định, đầu tư cho giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số chính là đầu tư cho tương lai của Thái Nguyên. Khi tri thức được lan tỏa đến từng bản làng, từng gia đình, nguồn nhân lực được nâng cao, thì phát triển bền vững không còn là mục tiêu xa vời mà trở thành hiện thực vững chắc trong giai đoạn mới.
PV