Thăng Long - Kẻ Chợ và câu chuyện buôn bán quanh kinh thành

Thăng Long - Kẻ Chợ và câu chuyện buôn bán quanh kinh thành
6 giờ trướcBài gốc
Nhịp sống của người dân Kẻ Chợ quanh kinh thành
Kẻ Chợ không chỉ là chốn mua bán tấp nập, mà còn là biểu tượng cho nền kinh tế truyền thống Việt Nam với những đặc tính thủ công, buôn bán, đậm tính cộng đồng và sáng tạo. Qua từng triều đại phong kiến, rồi đến thời kỳ Pháp thuộc, bức tranh đô thị khoác lên mình tấm áo mới, từ những phiên chợ đầu làng, tới phố nghề sầm uất và cuối cùng kết tinh thành biểu tượng văn hóa ngàn năm.
Theo cố GS Trần Quốc Vượng, Hà Nội là Thủ đô của “Cửa nước”, ví như ô Cầu Giấy nằm ở ngã ba sông Tô Lịch và Kim Ngưu, Ô Đồng Lầm (Kim Liên) nằm ở ngã ba Kim Ngưu – Sét, ô Đông Mác (Thanh Nhàn) nằm ở ngã ba Kim Ngưu - Lừ, ô Bưởi (Hồng tâm của Tây hồ chí) nằm ở ngã ba Tô Lịch - Thiên Phù..
Các sông chạy quanh kinh thành, cửa ô, tạo nên chợ búa “trên bến, dưới thuyền” tấp nập. Từ đó có các chợ ven đô - chợ ô nằm ở đây thuộc vùng ngoài thành (thành Đại La trong sử sách đời Lý dài tới 30km). Đây chính là nơi giao lưu kinh tế văn hóa giữa nội thành và vùng ngoại thành rộng lớn là châu thổ Bắc Bộ.
Hà Nội có những cái chợ lớn đến bây giờ gọi còn thân thương như chợ Cửa Nam, chợ Cửa Đông, Cửa Bắc… sự hình thành các cái chợ đó có lý do từ các cửa thành mở ra.
Chợ Đồng Xuân những năm 1890 với hai dãy nhà khung thép mái tôn đầu tiên. (Nguồn: Université Côte d'Azur)
Cố GS Trần Quốc Vượng còn cho biết thêm, Hoàng thành từ đời Lý mở bốn cửa: Cửa Diệu Đức - tức là cửa Bắc, bên dòng sông Tô, sau bị san lấp thành đường Phan Đình Phùng ngày này. Ở đây hình thành chợ Cửa Bắc, còn gọi là chợ Yên Quang (Yên Ninh). Xưa có câu ca rằng: “Phiên rằm chợ chính Yên Quang/Yêu hoa anh đợi hoa nàng mới mua”. Sau này, chợ cửa Bắc chuyển dịch lên chợ Châu Long.
Cửa Đại Hưng - tức cửa Nam, ở bên trong chợ cửa Nam và vườn hoa cửa Nam ngày nay. Tên chợ vẫn gọi như ngày nay.
Cửa Quảng Phúc - tức cửa Tây, mở đi ra chùa Một Cột, quảng trường Ba Đình ngày nay. Chợ cửa Tây là chợ Ngọc Hà, dân Kẻ Chợ có câu “bán mít chợ Đông, bán hồng chợ Tây”.
Cửa Tường Phù - tức cửa Đông, đi về phía chợ Đông, Bạch Mã (Hàng Buồm). Cửa Đông như bây giờ đã bị xây lùi lại vào đời nhà Nguyễn vì nhà Nguyễn không cho phép thành Hà Nội lớn hơn kinh thành Huế. Chợ Cầu Đông gắn liền với đời sống người dân Kẻ Chợ từ thuở xa xưa. Nơi đây có ngôi chùa Cầu Đông cổ kính trên phố Hàng Đường, còn có đền Bạch Mã, một trong Tứ trấn Thăng Long, nên cảnh họp chợ ở đây tấp nập, đủ dư vị dân gian. Câu ca dao xưa từng dí dỏm “Bà già ra chợ Cầu Đông/Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng?/Thầy bói gieo quẻ nói rằng/Lợi thì có lợi nhưng răng không còn”.
Xưa sông Tô Lịch từ Hàng Cá chảy qua Ngõ Gạch, rồi đổ sông Hồng khiến cho khu vực này rất thơ mộng, với cảnh bán buôn rộn ràng. Khi người Pháp chiếm Hà Nội, dòng sông xưa bị lấp, chợ Cầu Đông cũng thưa vắng. Cái tên “Cầu Đông” chỉ còn lại trên tấm biển con phố nhỏ song song với Hàng Chiếu, Hàng Khoai.
Đó là bốn chợ lớn bao phủ quanh thành Hà Nội với bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Như vậy, Thăng Long - Kẻ Chợ nó vừa là trung tâm chính trị vừa có mạng lưới chợ lớn ở ven đô cùng với các phố hàng được hình thành, tạo nên sự gắn kết mật thiết “trong thành ngoài thị”.
Tàu điện chạy qua chợ Đồng Xuân năm 1989. (Ảnh tư liệu)
“Đó là một sự quy hoạch thông minh, độc đáo của một đô thị phương Đông cổ, một đô thị đậm đà sắc thái dân tộc - dân gian và không quá cách bức với xóm làng thôn dã bao quanh”, cố GS Trần Quốc Vượng nhấn mạnh.
Chờ Đồng Xuân - sức sống thương mại tiếp nối của Kẻ Chợ
Đồng Xuân, vốn là tên một tổng của Hà Nội, được dân gian đặt cho ngôi chợ mới. Đó như một cách để người Hà Nội lưu giữ nét truyền thống trong lòng phố thị đang dần Tây phương hóa.
Theo Quốc sử di biên: Năm 1804, khi nhà Nguyễn xây dựng thành Thăng Long. Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành đã cho lập một ngôi chợ lớn ngay cửa Đông thành, gần phường Đồng Xuân. Cuối thế kỷ 19, khi người Pháp quy hoạch lại Hà Nội, chợ Đồng Xuân ra đời - một kết nối truyền thống Kẻ Chợ dân gian với Thăng Long, Hà Nội thời cưỡng bức của Tây Âu.
Tháng 10/1886, Tòa Công sứ Hà Nội cho đăng yết thị trên tờ L’Avenir du Tonkin, mở một “cuộc điều tra công khai” về việc lập chợ: lợi ích, vị trí, thuế khóa…
Ngày 6/4/1888, Tổng trú sứ Trung - Bắc Kỳ chính thức công bố quyết định xây dựng bốn khu chợ có mái che tại Hàng Tre, Hàng Gạo (Đồng Xuân), Đường Thành và Đồng Khánh (Hàng Bài).
Trong số đó, chợ Đồng Xuân được định vị như trung tâm giao thương lớn nhất Bắc Kỳ. Người Pháp gọi nó là “Les Halles centrales”, hay “Grand Marché”, có khi, nó còn được gọi là “Marché de la rue du Riz”: chợ phố Hàng Gạo, bởi chợ nằm giữa khu phố vốn là nơi buôn bán lương thực, hàng tiêu dùng.
Dù ban đầu, việc xây chợ không như mong muốn do những tranh cãi về quyền khai thác chợ và xảy ra kiện tụng. Theo thông tin từ Trung tâm lưu trữ quốc gia I: “Leyret đã từ chối bàn giao sắt thép cho Pelissier với lý do Pelissier không đủ khả năng tài chính. Vụ việc bùng phát thành một vụ kiện thương mại giữa Leyret và Pelissier, một trong những vụ kiện đầu tiên liên quan đến lịch sử của chợ Đồng Xuân”.
Một cuộc quy hoạch, thu hồi đất mạnh mẽ vào năm 1888. Hàng loạt chủ đất, cả người Việt lẫn người Pháp, phải nhượng đất. Ngày 22/5/1895, Hội đồng thành phố quyết định san lấp ao phía sau Hàng Gạo, Đồng Khánh, biến nền đất trũng thành không gian chợ khang trang.
Đến thập niên 1920, Thành phố quyết định mở rộng phố Hàng Khoai lên 12 mét, trưng dụng thêm đất của Bạch Thái Bưởi, doanh nhân lớn của người Việt. Thậm chí, khu đất số 316 rộng 10.000m², vốn là Xưởng dệt Bourgouin, sau sáp nhập vào Nhà máy Sợi Bắc Kỳ, cũng được trưng mua với giá 90.000 đồng bạc Đông Dương. Đến 1930, tường rào kiên cố dựng lên, biến Đồng Xuân thành trung tâm buôn bán sầm uất nhất Hà Nội.
Chợ Đồng Xuân ngay từ đầu đã mang hơi thở hiện đại. Khung thép, mái tôn - vật liệu phương Tây - tạo nên dáng vẻ khác biệt với chợ lớp tranh của người Việt. Từ những ngày đầu sóng gió 1885 - 1900, Đồng Xuân đã bước qua nhiều lần tranh chấp, mở rộng, tái định hình. Mỗi mảnh đất trưng mua, mỗi lần dựng - dỡ - xây - lại đã để lại một dấu ấn trong lịch sử. Từ chợ Cầu Đông ven dòng Tô Lịch xưa đến Grand Marché của người Pháp, từ mái lá đến khung thép, Đồng Xuân không chỉ là chợ mà là minh chứng sống động cho sự biến chuyển của Hà Nội từ một kinh thành phong kiến sang đô thị thuộc địa.
Đồng Xuân không phải để thay thế “Kẻ Chợ” xưa cũ, mà là cách tổ chức lại dòng chảy thương nghiệp đã cuộn trào tự phát qua bao thế kỷ. Nó là nhịp đập của Hà Nội, nơi “trên bến, dưới thuyền”, nơi chữ “chợ” vượt khỏi nghĩa mua bán, trở thành linh hồn của cộng đồng.
Khi Hà Nội có đường ray tàu điện, có cầu Doumer (nay là cầu Long Biên) vắt ngang sông Hồng, khi tuyến đường sắt thương mại Đông Dương mở tới Vân Nam, Hải Phòng, Đồng Xuân đã trở thành trung tâm thương mại lớn nhất Bắc Kỳ, đầu mối hàng hóa đi khắp nơi.
Từ một Kẻ Chợ bên bến sông đến “Chợ Lớn” giữa lòng phố cổ, Đồng Xuân đã trở thành nơi quá khứ và hiện tại gặp gỡ nhau mỗi sớm mai. Cho đến hôm nay, tiếng rao, mùi quẩy nóng, âm thanh xe kéo, khói hương từ những bàn thờ nhỏ nép nơi góc chợ vẫn ngân vang.
GS Trần Ngọc Thêm chia sẻ: “Ngày trước thương (buôn bán) là nghề bị coi rẻ nhất “nghề nông là gốc, nghề buôn là ngọn”. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì, một mặt do tính cộng đồng, xã hội nông nghiệp sống theo tình cảm, trong khi nghề buôn bán lấy lợi nhuận làm đầu; mặt khác, do tính tự trị, xã hội nông nghiệp sống tự cấp tự túc ít có nhu cầu buôn bán, mà người buôn bán thì vẫn cần phải sống, do vậy họ phải tìm cách tăng lợi nhuận một cách bất chính. Ngay cả nhà nước cũng đề ra những chính sách trọng nông ức thương. Dưới thời Hồng Đức, nhà vua đã định đuổi những thị dân nào không có hộ khẩu ở Thăng Long về quê làm ruộng song việc này không thực hiện được. Ở Việt Nam, cách nói “đồ con buôn” là câu chửi vào loại nặng nề. Điều này khác hẳn với ở phương Tây, nơi mà nền kinh tế từ cái gốc chăn nuôi xa xưa đã chuyển sang cuộc sống thương nghiệp và đô thị từ lâu, nơi mà nhà doanh nghiệp hay thương nhân là loại người được xã hội trọng vọng và kính nể”.
Tuấn Ngọc
Nguồn Pháp Luật VN : https://baophapluat.vn/thang-long-ke-cho-va-cau-chuyen-buon-ban-quanh-kinh-thanh.html