Cây lá nhíp trở thành “cây làm giàu” của người S’tiêng ở vùng biên Đồng Nai, Lâm Đồng. Ảnh: Phương Thùy
Từ món rau của đại ngàn đến đặc sản của thời hiện đại
Giữa bạt ngàn rừng núi của các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ nói chung và 2 tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng nói riêng, nơi đất đỏ bazan trù phú và những cơn mưa rừng tưới tắm quanh năm, rau nhíp (hay còn gọi là lá bép) đã gắn bó với đời sống của đồng bào S’tiêng từ bao đời nay. Trong những năm tháng gian khó của kháng chiến, khi lương thực khan hiếm, rau nhíp chính là “cứu tinh” nuôi sống bộ đội và dân công trong rừng sâu. Với vị ngọt thanh, dễ chế biến, lại có quanh năm, rau nhíp đã trở thành nguồn dinh dưỡng quý giá giữa đại ngàn, trở thành món ăn không thể thiếu trong những dịp lễ hội, trong mâm cỗ truyền thống của người S’tiêng, M’nông hay người Kinh sinh sống tại vùng này.
Ngày nay, khi cuộc sống đã đổi thay, rau nhíp vẫn giữ nguyên vị trí đặc biệt trong văn hóa ẩm thực của người dân miền Đông Nam Bộ. Không chỉ là món ăn gợi nhớ quá khứ, rau nhíp còn là biểu tượng của sự gắn bó giữa con người với núi rừng. Với đồng bào S’tiêng, mỗi đọt lá nhíp xanh mướt như mang hồn cốt của đất, của mưa rừng, của những tháng ngày gian khó mà nghĩa tình. Người dân địa phương thường chế biến rau nhíp thành nhiều món như: canh lá nhíp nấu cua, lá nhíp xào trứng gà non, lá nhíp xào thịt bò, hay đơn giản là lẩu lá nhíp, một món ăn đã trở thành “đặc sản” khiến du khách phương xa phải tìm đến thưởng thức mỗi khi đặt chân đến Đồng Nai, Lâm Đồng. Không chỉ là món ăn ngon, rau nhíp còn được xem là vị thuốc quý. Theo kinh nghiệm dân gian, lá bép giúp thanh nhiệt, giải độc, tăng cường sức khỏe. Khoa học hiện đại cũng chỉ ra rằng rau nhíp chứa nhiều đạm, acid amin và khoáng chất thiết yếu như sắt, canxi, kali là những thành phần có lợi cho tim mạch và hệ miễn dịch. Chính vì vậy, người dân địa phương thường nói vui rằng “ăn lá nhíp là ăn sức khỏe của rừng”.
Từ món ăn dân dã của rừng, rau nhíp đã bước ra đời sống kinh tế, trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và thiên nhiên, giữa văn hóa và phát triển. Sự chuyển mình ấy không chỉ thể hiện giá trị kinh tế của một loại cây bản địa, mà còn là minh chứng cho tư duy đổi mới, cho khát vọng vươn lên của những con người vùng biên - những người đang biến những món quà của rừng thành của cải, thành sinh kế bền vững cho hôm nay và mai sau.
“Cây thoát nghèo” của người S’tiêng
Cái quý của rau nhíp không chỉ nằm ở hương vị, mà còn ở câu chuyện văn hóa phía sau nó. Trong từng đọt lá nhíp xanh mướt là ký ức của đồng bào về những tháng ngày gian khó, là tinh thần tự lực, vượt lên nghịch cảnh để sinh tồn giữa đại ngàn. Và giờ đây, khi cây rau ấy được mang về trồng trong vườn, xen dưới tán điều, cà phê, nó lại một lần nữa trở thành “người bạn đồng hành” giúp đồng bào S’tiêng viết tiếp hành trình thoát nghèo, làm giàu chính đáng trên chính mảnh đất quê hương mình.
Tại xã Bù Đăng hay Nghĩa Trung của tỉnh Đồng Nai, mô hình trồng rau nhíp xen canh dưới tán điều, cà phê, ca cao đang trở thành hướng đi mới giúp nhiều hộ đồng bào S’tiêng thoát nghèo. Tiêu biểu là sóc Bu Cà Rói, xã biên giới Bù Đăng, nơi có gần 360 hộ dân người dân tộc S’tiêng định cư lâu đời. Trước đây, bà con chỉ biết trông chờ vào cây điều, cây cà phê, cây ca cao và mỗi năm phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết, giá cả bấp bênh, mùa giáp hạt lại thiếu ăn. Khi chính quyền và Hội Nông dân xã vận động chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hướng dẫn bà con trồng xen cây lá nhíp, mô hình này đã nhanh chóng phát huy hiệu quả. Bởi rau nhíp không cần nhiều công chăm sóc, ít sâu bệnh, dễ trồng và phù hợp với điều kiện khí hậu thổ nhưỡng của vùng đất đỏ bazan.
Đến thăm gia đình anh Điểu Nghĩa ở thôn Sơn Hòa 1, xã Thọ Sơn, tỉnh Đồng Nai mới thấy rõ hiệu quả kinh tế mà cây rau rừng mang lại. Trước đây, anh Nghĩa chỉ trông vào vài sào điều và cà phê, mỗi năm thu chẳng đáng là bao. Thế nhưng từ ngày đưa cây nhíp về trồng xen canh trong vườn, cuộc sống gia đình đã đổi khác. Anh Nghĩa kể: “Trước kia, muốn ăn rau nhíp phải đợi mùa mưa, lội rừng cả buổi mới hái được ít. Nay, tôi trồng quanh nhà, vừa có rau sạch ăn quanh năm, vừa bán kiếm thêm thu nhập. Bình quân mỗi tháng tôi thu 5–6 triệu đồng từ rau nhíp. Mùa mưa giá khoảng 30.000 đồng/kg, mùa nắng còn cao hơn”. Hiện, gia đình anh có gần 2,5ha rau nhíp (gần 2.000 cây) trồng xen dưới tán điều. Nhờ nguồn thu ổn định, anh đã thoát nghèo, xây được nhà kiên cố, sắm xe máy mới cho con đi học. Niềm vui của anh cũng là niềm vui chung của nhiều hộ đồng bào trong vùng. Không chỉ riêng ở xã Thọ Sơn hay Nghĩa Trung, mô hình này đang lan tỏa sang nhiều vùng khác của Đồng Nai và Lâm Đồng. Cây rau rừng mộc mạc ngày nào giờ trở thành “cây thoát nghèo”, giúp nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số có thu nhập ổn định, vươn lên làm giàu chính đáng.
Bà con dân tộc S'tiêng ở tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng trồng xen canh cây lá nhíp trong các vườn điều, cà phê hay ca cao để tăng thêm thu nhập. Ảnh: Phương Thùy
Từ rau rừng đến kinh tế xanh nơi biên giới
Trên những triền đồi ở sóc Bu Cà Rói hay thôn Sơn Hòa 1 hôm nay, màu xanh của lá nhíp đã phủ khắp nương rẫy. Những tán lá non đỏ hồng khi mới nhú như lời báo hiệu mùa no ấm. Người dân không còn vào rừng tìm rau như trước, mà chính rừng đã “bước ra” trong từng khu vườn nhà.
Câu chuyện thoát nghèo nhờ trồng rau nhíp cũng phản ánh xu hướng phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đó là khai thác hợp lý tiềm năng bản địa, kết hợp tri thức dân gian với khoa học kỹ thuật để tạo sinh kế ổn định. Với lợi thế là cây bản địa, ít sâu bệnh, không sử dụng hóa chất, rau nhíp góp phần quan trọng trong việc xây dựng mô hình “nông nghiệp xanh”, bảo vệ môi trường sinh thái. Những vườn rau nhíp dưới tán điều không chỉ phủ xanh đất trống, chống xói mòn, mà còn tạo cảnh quan sinh thái, thu hút du khách đến trải nghiệm. Như vậy, từ một loài rau mọc hoang trong rừng, rau nhíp đang dần trở thành “cây kinh tế xanh”, vừa mang lại lợi ích kinh tế, vừa góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa, bảo vệ môi trường, tạo việc làm và giảm nghèo bền vững cho đồng bào vùng biên.
Trong nỗ lực chung xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, câu chuyện trồng rau nhíp mang nhiều ý nghĩa. Nó không chỉ là thành quả của sự cần cù, sáng tạo, mà còn thể hiện tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số, có sự đồng hành của chính quyền và các ngành chức năng trong công tác vận động, hỗ trợ sinh kế. Từ một loài cây dân dã nơi đại ngàn, rau nhíp đã vươn mình trở thành “cây làm giàu” của người S’tiêng ở vùng biên Đồng Nai, Lâm Đồng. Câu chuyện ấy là minh chứng sinh động cho chủ trương phát triển kinh tế gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa, xây dựng nông thôn mới ở khu vực biên giới.
Phương Thùy