Tiền không mua được… em bé: Bài học đắt giá từ mức sinh thấp

Tiền không mua được… em bé: Bài học đắt giá từ mức sinh thấp
6 giờ trướcBài gốc
Trước những thách thức dân số ngày càng hiện hữu - mức sinh thấp, tốc độ già hóa tăng nhanh và cơ cấu dân số thay đổi - câu chuyện “khuyến sinh” không còn là vấn đề riêng của một vài quốc gia phát triển.
55 Chính phủ có chính sách tăng mức sinh
Theo báo cáo của Bộ Y tế, có 55 Chính phủ đã có chính sách tăng mức sinh, 19 Chính phủ tập trung vào việc duy trì mức sinh hiện tại.
Các nhóm biện pháp chính được đưa ra gồm: (1) Cải thiện chế độ nghỉ thai sản, chế độ bố nghỉ chăm con, chế độ nghỉ phép không lương được bảo đảm công việc, thời giờ làm việc ngắn hơn hoặc bán thời gian; (2) Thưởng cho việc sinh con, ưu đãi thuế, trợ cấp tiền mặt hằng tháng cho trẻ em; hỗ trợ thuê nhà, mua nhà ở; (3) Tăng tính sẵn có của dịch vụ chăm sóc trẻ em, hỗ trợ chi phí chăm sóc trẻ em; (4) Cải thiện hỗ trợ của nhà nước cho thụ tinh trong ống nghiệm, quy định bảo hiểm hiếm muộn, tăng tính sẵn có của dịch vụ thụ tinh trong ống nghiệm.
Dự thảo Luật Dân số do Bộ Y tế xây dựng đang được trình Quốc hội khóa XV xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 10, trong đó đã bổ sung hàng loạt chính sách khuyến sinh nhằm cải thiện thực trạng mức sinh thấp. Ảnh minh họa: TT
Về mất cân bằng giới tính khi sinh, các nước triển khai đồng bộ 4 nhóm biện pháp chính: (1) Biện pháp pháp lý: quy định các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến lựa chọn giới tính; (2) Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới; (3) Hỗ trợ về kinh tế và xã hội nhằm tạo điều kiện thuận lợi để giảm áp lực về kinh tế và văn hóa dẫn đến quan niệm ưa thích con trai và (4) Truyền thông cộng đồng nhằm thay đổi nhận thức của toàn xã hội về giá trị của phụ nữ và trẻ em gái.
Về nâng cao chất lượng dân số, nhiều quốc gia đã triển khai các mô hình can thiệp hướng tới mục tiêu là giảm tỉ lệ bệnh tật bẩm sinh, nâng cao chất lượng dân số. Trung Quốc, Hàn quốc, Philipines, Thái lan đã quy định và tổ chức tầm soát trước sinh và sơ sinh, kiểm tra sức khỏe trước khi kết hôn.
"Một số nước đã đầu tư nhiều kinh phí cho công tác dân số nhưng cũng không tăng được mức sinh hay giảm tỉ số giới tính khi sinh (Singapore, Hàn Quốc...). Dù vậy, các nước vẫn đang triển khai", Bộ Y tế nêu.
Theo Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA), cứ 1 USD đầu tư cho sức khỏe bà mẹ có thể mang lại 8,4 USD lợi nhuận kinh tế vào năm 2050. Tương tự như vậy, cứ 1 USD đầu tư vào kế hoạch hóa gia đình thì có thể mang lại 10,1 USD lợi nhuận kinh tế.
Điều đó cho thấy đầu tư cho dân số không chỉ là chính sách xã hội mà còn là chiến lược phát triển kinh tế bền vững.
Hàn Quốc, Singapore... đã đi trước Việt Nam nhiều năm trong cuộc đối mặt với mức sinh thấp và những hệ lụy kéo theo. Các nước này triển khai nhiều chính sách mạnh tay, bài học rút ra là: khuyến sinh không chỉ là chuyện “phát tiền” hay “tăng trợ cấp”, mà phải là chiến lược tổng thể, đồng bộ giữa kinh tế, xã hội và văn hóa.
Singapore: Gói khuyến sinh toàn diện nhưng hiệu quả hạn chế
Từng là quốc gia đi đầu trong việc hạn chế sinh con những năm 1960, Singapore từ thập niên 80 đã phải đưa ra những biện pháp để khuyến khích sinh con. Chính phủ nước này ban hành khẩu hiệu “Have three or more if you can afford it” (Hãy sinh ba con hoặc hơn nếu bạn có điều kiện) và liên tục mở rộng chính sách hỗ trợ tài chính.
Gói Baby Bonus (Thưởng cho Trẻ sơ sinh) ra đời từ năm 2001, tặng tiền cho mỗi trẻ sơ sinh, cùng với đó là một tài khoản tiết kiệm mà Chính phủ hỗ trợ thêm.
Ngoài ra, Singapore còn hỗ trợ chi phí thụ tinh trong ống nghiệm, giảm thuế cho hộ có con nhỏ, ưu tiên mua nhà ở xã hội đối với gia đình có hơn hai con và tạo điều kiện làm việc linh hoạt cho cha mẹ.
Tuy vậy, theo số liệu được công bố, tổng tỉ suất sinh năm 2024 của nước này chỉ đạt 0,97 con/phụ nữ, không thay đổi so với năm 2023, giảm so với kỷ lục trước đó là 1,04 năm 2022 và 1,12 năm 2021, thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế, và cũng thuộc nhóm thấp nhất thế giới.
Dù các chính sách khuyến sinh bao phủ gần như mọi lĩnh vực, Singapore vẫn chưa thể đảo ngược xu hướng giảm sinh. Nguyên nhân được các chuyên gia chỉ ra là do: chi phí sinh hoạt, học hành và nhà ở quá cao; áp lực công việc lớn; người trẻ kết hôn muộn và có xu hướng sống độc thân lâu hơn.
Hàn Quốc: Chi mạnh nhưng chưa thể “cứu” mức sinh
Những năm qua, Chính phủ Hàn Quốc đã chi hàng trăm tỉ USD cho các chính sách khuyến sinh. Từ đầu năm 2023, mỗi gia đình có con nhỏ được nhận khoảng 700.000 won/tháng (tương đương 12,6 triệu đồng) cho trẻ dưới 1 tuổi; cha mẹ được nghỉ phép dài hơn và hưởng chế độ đặc biệt nếu cả hai cùng nghỉ để chăm con.
Trước đó, từ năm 2006, nước cũng này đã triển khai chương trình hỗ trợ kết hôn và sinh con, bình quân chi 12,5 tỉ USD mỗi năm, mục tiêu là tăng mức sinh đạt 1,6 con/phụ nữ vào năm 2020. Song chương trình đã thất bại, mức sinh năm 2020 là 0,84 và năm 2023 là 0,72 - thấp nhất thế giới.
Năm 2024, tổng tỉ suất sinh của nước này nhích lên 0,75 con/phụ nữ - lần đầu tiên tăng sau gần 1 thập kỷ liên tiếp giảm. Sự cải thiện này được xem là tín hiệu tích cực nhưng vẫn rất mong manh.
Cạnh đó, nhà nước cũng hỗ trợ thuê, mua nhà ở, mở rộng nhà trẻ công lập và khuyến khích doanh nghiệp tạo môi trường làm việc thân thiện với gia đình.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng chỉ ra nguyên nhân cốt lõi khiến các biện pháp này chưa đạt hiệu quả: xã hội Hàn Quốc vẫn tồn tại áp lực công việc khắc nghiệt, chi phí nuôi con cao, vai trò giới truyền thống còn nặng nề khiến phụ nữ khó cân bằng giữa sự nghiệp và gia đình. Nhiều người trẻ coi việc kết hôn và sinh con là “gánh nặng” hơn là lựa chọn hạnh phúc.
Dù chi tiêu lớn và chính sách dày đặc, Hàn Quốc chưa thể thực sự đảo chiều xu hướng giảm sinh. Dù vậy, nước này kiên trì điều chỉnh, mở rộng các chính sách, và gần đây đã ghi nhận tín hiệu khởi sắc đầu tiên.
Trong một nghiên cứu của mình, GS Nguyễn Thiện Nhân, đại biểu Quốc hội đoàn TP.HCM, nêu: "Dân số Hàn Quốc năm 2020 là 51,8 triệu người, nước này dự báo dân số năm 2100 là 20 triệu người (mất 61% dân số), năm 2200 chỉ còn 3 triệu người (mất 94%) và năm 2750 không còn người Hàn Quốc nào".
Ông Nhân cũng chỉ ra rằng, trong số 42 nước thu nhập cao hiện nay thì 38 nước (chiếm 90%) có tổng tỉ suất sinh dưới 2 và kéo dài hàng chục năm. Tổng tỉ suất sinh bình quân của 38 nước này là 1,47 (thấp xa mức sinh thay thế 2,1 để đất nước phát triển bền vững) và thời gian bình quân có tổng tỉ suất sinh dưới 2 là 40 năm.
Hàn Quốc và Singapore là hai minh chứng rõ ràng rằng khi mức sinh đã giảm sâu, việc phục hồi là vô cùng khó khăn và tốn kém.
Kinh nghiệm cho Việt Nam
Mức sinh tại Việt Nam có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ vào năm 2021 xuống 1,91 con/phụ nữ năm 2024 - mức thấp nhất trong lịch sử và được dự báo là sẽ tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo.
Đáng lưu ý là sự chênh lệch vùng miền. Có 2/6 vùng kinh tế - xã hội có mức sinh thấp dưới mức sinh thay thế là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long và 2/6 vùng có mức sinh cao trên mức sinh thay thế là Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Chênh lệch giữa mức sinh vùng cao nhất (Trung du miền núi phía Bắc) và vùng thấp nhất (Đông Nam bộ) là 0,86 con/phụ nữ.
Cùng lúc, Việt Nam đã bước vào giai đoạn già hóa dân số nhanh, nếu không điều chỉnh kịp thời, nguy cơ thiếu hụt lao động trẻ trong tương lai là rất lớn.
Mức sinh tại Việt Nam năm 2024 là 1,91 con/phụ nữ - mức thấp nhất trong lịch sử. Ảnh minh họa: TT
Theo GS.TS Giang Thanh Long, Giảng viên cao cấp trường Kinh tế và Quản lý công, Đại học Kinh tế Quốc dân, các yếu tố tác động đến sự thay đổi của mức sinh tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa truyền thống.
Nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước cũng như thống kê của các tổ chức quốc tế cho thấy có nhiều nguyên nhân khiến cho tổng tỉ suất sinh của nhiều quốc gia đang ngày càng giảm, không chỉ ở những nước có thu nhập cao mà ngay cả những nước có thu nhập trung bình, trong đó có nguyên nhân chính liên quan tới kinh tế và các áp lực khác nhau trong cuộc sống.
Cũng theo ông Long, kinh nghiệm quốc tế cho thấy cần phải có sự đồng bộ, nhất quán và có tính tương hỗ giữa rất nhiều chính sách liên quan. "Là nước đi sau về bối cảnh giảm sinh, Việt Nam cần tiến hành đồng bộ các chính sách như mở rộng diện bao phủ bắt buộc với bảo hiểm xã hội, bao phủ toàn dân về BHYT, mở rộng chế độ thai sản, thí điểm và triển khai bảo hiểm chăm sóc dài hạn…", ông Long nêu ví dụ.
Ngoài ra, theo một cán bộ chuyên trách dân số tại xã Nguyễn Trãi (Hưng Yên), một điểm quan trọng khác là chính sách khuyến sinh không thể áp dụng “rập khuôn”. Việt Nam có thu nhập trung bình, cơ cấu dân số trẻ hơn, chi phí sinh hoạt thấp hơn nên cần linh hoạt thiết kế chính sách phù hợp với từng vùng, từng nhóm dân cư.
Ví dụ, ở đô thị có thể tập trung hỗ trợ nhà ở, nhà trẻ và chế độ làm việc linh hoạt; còn ở nông thôn, ưu tiên chăm sóc sức khỏe sinh sản, giáo dục, nâng cao chất lượng dân số.
Dự thảo Luật Dân số do Bộ Y tế xây dựng đang được trình Quốc hội khóa XV xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 10.
Bộ Y tế cho biết dự thảo đã được tham vấn rộng rãi ý kiến của chuyên gia, nhà khoa học và các cơ quan chức năng để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Dự thảo đã bổ sung hàng loạt chính sách khuyến sinh như:
Tăng thời gian nghỉ thai sản thêm 1 tháng đối với phụ nữ sinh con thứ hai.
Nam giới được nghỉ 5 ngày làm việc khi vợ sinh con.
Hỗ trợ tài chính cho phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi, phụ nữ dân tộc thiểu số, và phụ nữ ở địa phương có mức sinh thấp.
Ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội cho phụ nữ sinh đủ hai con và nam giới nuôi hai con mà vợ đã mất.
Nếu được thông qua, đây sẽ là mốc quan trọng đánh dấu lần đầu tiên Việt Nam có một đạo luật toàn diện về dân số, đặt nền tảng cho chính sách khuyến sinh bền vững, hỗ trợ người dân an cư và hướng tới một xã hội phát triển hài hòa giữa kinh tế và con người.
THANH TÚ
Nguồn PLO : https://plo.vn/tien-khong-mua-duoc-em-be-bai-hoc-dat-gia-tu-muc-sinh-thap-post880765.html