Tiêu chuẩn tín chỉ carbon rừng, mở đường cho tư nhân tham gia thị trường. Ảnh: Minh Quân.
Cơ hội giảm phát thải
Đánh giá về thực trạng nêu trên, PGS.TS Trần Quang Bảo - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, việc ban hành Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng trong bối cảnh quốc tế ngày càng yêu cầu minh bạch về giảm phát thải là rất cần thiết, để “mở đường” cho tư nhân, doanh nghiệp (DN) thuận lợi tham gia thị trường. Theo đó, nghị định sẽ “cởi trói” cho các chủ tín chỉ carbon, cho phép họ chủ động hơn trong việc trao đổi, chuyển nhượng hoặc bù trừ tín chỉ, không chỉ trong nước mà cả với đối tác quốc tế.
Dự thảo nghị định được xây dựng trên cơ sở khung pháp lý của Nghị định 06/2022/NĐ-CP, với mục tiêu hỗ trợ tối đa cho các chủ rừng, đặc biệt là trong việc đơn giản hóa thủ tục và tạo thuận lợi cho việc tham gia thị trường carbon. Đồng thời hướng tới việc thu hút mạnh mẽ sự tham gia của khối tư nhân và DN, những chủ thể có tiềm lực tài chính và công nghệ, nhằm gia tăng trữ lượng rừng, qua đó đóng góp thiết thực vào mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững và thực hiện cam kết về khí hậu của Việt Nam.
Theo bà Nghiêm Phương Thúy - chuyên gia của Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng tiêu chuẩn carbon rừng trong nước, song song với cơ chế ghi nhận tín chỉ theo chuẩn quốc tế. Đây cũng là bước hoàn thiện khung pháp lý nhằm cụ thể hóa các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt sau khi Việt Nam công bố mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Một trong những điểm mới là việc quy định rõ bên cung ứng dịch vụ có thể là chủ rừng nhà nước (UBND xã, các tổ chức công lập), hoặc tư nhân (cá nhân, hộ gia đình, DN). Còn bên sử dụng dịch vụ là các tổ chức, cá nhân trong hoặc ngoài nước có nhu cầu bù đắp phát thải carbon.
Đảm bảo lợi ích các bên
Để đảm bảo tính minh bạch, phù hợp với định hướng luật pháp hiện hành về bảo vệ môi trường và lâm nghiệp, PGS.TS Nguyễn Bá Ngãi - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Chủ rừng Việt Nam đề xuất tách bạch 2 cơ chế cung ứng dịch vụ và thị trường giao dịch. Theo ông Ngãi, cơ chế cung ứng dịch vụ nên được tiếp cận như một quan hệ dân sự - hợp đồng. Trong đó, tín chỉ carbon rừng được trao đổi giữa bên cung ứng (chủ rừng) và bên sử dụng (DN phát thải) thông qua thỏa thuận có sự điều tiết giá của nhà nước.
Cách làm này tương tự như cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng đang triển khai, đảm bảo lợi ích các bên và tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho người dân, cộng đồng địa phương. Ngược lại, đối với cơ chế thị trường, tín chỉ carbon rừng được đưa lên sàn giao dịch để các DN tự trao đổi, bù trừ phát thải hoặc mua bán theo nhu cầu. Trong trường hợp này, nhà nước không can thiệp vào mức giá, để giá tín chỉ được hình thành theo nguyên tắc thị trường hoặc thông qua đấu giá.
Ông Tô Xuân Phúc (Tổ chức Forest Trends) cho rằng, hiện nay diện tích rừng, đặc biệt là rừng trồng của các hộ dân rất lớn. Đây là những diện tích đất mà nhà nước giao cho người dân để sản xuất, phát triển rừng lâu dài và các hộ đã tự bỏ vốn đầu tư. Vì vậy, rừng trồng của hộ dân cần được xem là tài sản tư nhân và các quy định, nghị định liên quan nên mở rộng theo hướng cho phép người dân được toàn quyền liên doanh, liên kết, cũng như tham gia thị trường carbon. Trong khi đó, các hộ, cá nhân sở hữu rừng trồng liền kề với các dự án của tỉnh có thể tự nguyện tham gia, được xác nhận diện tích và nhận chia sẻ lợi ích. Nguồn thu từ việc bán tín chỉ sẽ được chia theo hình thức chi trả trực tiếp hoặc thông qua Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam và các quỹ cấp tỉnh.
Hy vọng nghị định sau khi được ban hành sẽ tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng, thuận lợi để người dân, cộng đồng và DN lâm nghiệp có thể chủ động tham gia thị trường carbon. Việc ban hành Nghị định không chỉ là cơ hội thu hút nguồn lực tài chính bổ sung cho bảo vệ và phát triển rừng, mà còn là động lực để ngành lâm nghiệp góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam.
MINH QUÂN