Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thủy điện

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thủy điện
6 giờ trướcBài gốc
Hằng năm, mưa lớn kết hợp các nhà mày thủy điện ở thượng nguồn xả lũ gây thiệt hại nặng nề cho vùng hạ du.
Hằng năm ở nhiều địa phương tại khu vực miền trung-Tây Nguyên thường xuyên xảy ra tình trạng mưa lớn gây ngập úng vùng hạ du. Ngay sau đó, các nhà máy thủy điện ở thượng nguồn xả lũ với lý do để bảo đảm an toàn hồ, đập. Sự “cộng hưởng” này khiến nước vùng hạ du dâng cao, phạm vi mở rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến dân cư, vùng sản xuất làm thiệt hại của người dân nặng nề hơn. Trong khi chờ kết luận của các cơ quan chức năng, vấn đề đặt ra là trách nhiệm xã hội của các chủ đầu tư, doanh nghiệp thủy điện trong công tác khắc phục hậu quả mưa bão và xả lũ.
Thực tế cho thấy, trong các đợt mưa lũ vừa qua, không chỉ riêng thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ mà nhiều nhà máy thủy điện khác ở khu vực miền trung-Tây Nguyên cũng đồng loạt xả nước với lưu lượng khác nhau. Tỉnh Gia Lai hiện có 283 hồ chứa, trong đó nhiều hồ lớn tham gia vận hành điều tiết lũ cho khu vực hạ du phía đông tỉnh. Tỉnh Khánh Hòa có 64 hồ thủy lợi, thủy điện với tổng dung tích thiết kế hơn 751,7 triệu m³, tham gia điều tiết nước khi có mưa lớn. Tại thành phố Đà Nẵng, các thủy điện lớn trên thượng nguồn sông Vu Gia-Thu Bồn như Sông Tranh 2, A Vương, Sông Bung 4 cũng thông báo xả lũ, hạ dần mực nước hồ trong các đợt mưa lớn. Không ít trường hợp, việc xả lũ đã làm tăng đột ngột mực nước vùng hạ lưu, gia tăng nguy cơ sạt lở, ngập úng khu dân cư và sản xuất.
Nhiều năm qua, tình trạng một số nhà máy thủy điện tích nước thiếu chủ động, đến khi mưa lớn, hạ du đã ngập thì tiếp tục xả lũ, khiến thiệt hại càng chồng chất. Sau mỗi đợt lũ, các cơ quan, tổ chức và cộng đồng xã hội huy động nguồn lực để khắc phục hậu quả, hỗ trợ người dân. Trong khi đó, không ít doanh nghiệp thủy điện đứng ngoài cuộc hoặc chỉ tham gia hỗ trợ với tinh thần tự nguyện, tùy lòng hảo tâm và thiếu tính ràng buộc trách nhiệm.
Về bản chất, doanh nghiệp đầu tư thủy điện khai thác tài nguyên nước, rừng và sông suối để tạo ra lợi ích kinh tế, thì đồng thời cũng phải cần có trách nhiệm xã hội tương ứng với những rủi ro có thể gây ra cho cộng đồng. Trách nhiệm ấy là nghĩa vụ tất yếu khi doanh nghiệp khai thác tài nguyên quốc gia vì lợi nhuận, trong khi rủi ro và thiệt hại do xả lũ chồng lũ khiến người dân, doanh nghiệp khác, cơ quan nhà nước càng thêm thiệt hại về tài sản, cơ sở vật chất, sản xuất kinh doanh bị tàn phá, đình trệ, thua lỗ.
Nhiều ý kiến cho rằng, các nhà đầu tư cần chia sẻ lợi ích phát điện, trong mùa mưa lũ, trích một phần lợi nhuận ở mức thỏa đáng để hỗ trợ khẩn cấp lương thực, nước sạch, sửa chữa nhà cửa, tái sản xuất ban đầu; đồng thời tham gia tái thiết trường học, trạm y tế, đường giao thông bị hư hỏng, lập quỹ phục hồi sinh kế cho vùng hạ du. Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp thủy điện khi đồng hành cùng Nhà nước sẽ giúp nhân dân và địa phương tái thiết cuộc sống và phục hồi sản xuất nhanh chóng hơn.
Không dừng lại ở “cứu trợ sau lũ”, về lâu dài, doanh nghiệp thủy điện cần tham gia đầu tư các công trình phòng, chống lũ; hỗ trợ người dân chuyển đổi sinh kế phù hợp điều kiện ngập lụt ngày càng gia tăng. Qua đó, thể hiện rõ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và giữ vững niềm tin của cộng đồng.
Thực tế cho thấy, không thể trông chờ mãi vào sự tự nguyện, từ thiện của các doanh nghiệp thủy điện sau mỗi mùa mưa lũ. Các cơ quan chức năng cần sớm ban hành các chế tài, quy định cụ thể về trách nhiệm xã hội đối với lĩnh vực khai thác tài nguyên nhiều rủi ro đặc thù này; đồng thời, tăng cường sự tham gia giám sát của chính quyền địa phương và người dân. Việc thực thi nghiêm túc trách nhiệm xã hội cũng sẽ buộc các doanh nghiệp, nhà máy thủy điện nâng cao trách nhiệm, chặt chẽ hơn trong công tác quản lý, vận hành công trình, cả trong mùa nắng hạn lẫn mưa lũ.
ĐÔNG HUYỀN
Nguồn Nhân Dân : https://nhandan.vn/trach-nhiem-xa-hoi-cua-doanh-nghiep-thuy-dien-post928905.html