Những ứng dụng tiến bộ, mang tính cách mạng này không chỉ trao quyền cho các bác sĩ, nhân viên y tế mà còn nâng cao được chất lượng, dịch vụ chăm sóc bệnh nhân, là cơ hội mở ra một tương lai tươi sáng đối với ngành Y tế Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về những ứng dụng của AI trong Y tế nói chung và tại Việt Nam nói riêng, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với GS.TS.Nguyễn Thanh Thủy - Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Chủ tịch hội đồng giáo sư ngành CNTT, nguyên Phó hiệu trường Trường Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội - người xây dựng Chiến lược Quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030…
GS.TS.Nguyễn Thanh Thủy - Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Chủ tịch hội đồng giáo sư ngành CNTT. Ảnh: NVCC
Cải tiến cách chẩn đoán, điều trị và chăm sóc sức khỏe
Theo GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, trí tuệ nhân tạo đang mở ra “kỷ nguyên mới” cho y tế, mang lại những cải tiến vượt bậc trong chẩn đoán, điều trị và quản lý hệ thống chăm sóc sức khỏe… Chia sẻ cụ thể hơn về vấn đề này, GS. Thủy cho biết, nhờ khả năng phân tích dữ liệu nhanh chóng và chính xác, AI có thể thu thập thông tin qua nhiều nguồn khác nhau, từ hình ảnh đến thông tin gene và bệnh lý kỹ thuật số. Việc hợp nhất và tổng hợp mọi thông tin một cách bài bản là cực kỳ quan trọng.
“Trong một bệnh viện, mỗi ngày có hàng nghìn thông tin được ghi nhận, từ các kết quả xét nghiệm đến hình ảnh y khoa, từ các chỉ số sinh học đến lịch sử bệnh lý của từng bệnh nhân. Tuy nhiên, các thông tin này thường không được kết nối với nhau, khiến bác sĩ gặp nhiều khó khăn trong việc đưa ra quyết định chính xác. AI có thể giúp giải quyết vấn đề này bằng cách tạo ra một hệ thống giúp kết nối các nguồn dữ liệu từ nhiều nơi, giúp bác sĩ có cái nhìn toàn diện hơn về tình trạng sức khỏe của bệnh nhân.
Trí tuệ nhân tạo (AI) giúp cải tiến cách chẩn đoán, điều trị và chăm sóc sức khỏe. Ảnh minh họa
Với sự hỗ trợ của AI, các bác sĩ có thể đưa ra chẩn đoán chính xác hơn, từ đó áp dụng phương pháp điều trị phù hợp hơn với từng người. Điều này đặc biệt quan trọng trong việc phát hiện sớm các bệnh nguy hiểm như ung thư, tim mạch hay các bệnh lý thần kinh, nơi mà việc can thiệp sớm có thể cứu sống bệnh nhân. AI không chỉ giúp bác sĩ cải thiện độ chính xác mà còn giúp họ làm việc hiệu quả hơn, giảm thiểu sai sót và tiết kiệm thời gian”, GS. Thủy nói.
Bên cạnh đó, cũng theo GS. Thủy, công nghệ thực tế ảo (VR) đang được ứng dụng mạnh mẽ trong đào tạo y bác sĩ. Thông qua VR, các bác sĩ và sinh viên y khoa có thể thực hành và mô phỏng các ca phẫu thuật trong môi trường ảo, giúp họ nâng cao kỹ năng mà không cần phải thực hiện trên bệnh nhân thực tế. Việc này không chỉ giúp đào tạo bác sĩ nhanh chóng hơn mà còn giúp nâng cao sự tự tin và giảm thiểu sai sót trong các ca phẫu thuật thực tế.
Đặc biệt, VR còn giúp mở rộng cơ hội học hỏi cho các bác sĩ ở các khu vực xa xôi. Thay vì phải di chuyển đến các bệnh viện lớn hay thành phố, các bác sĩ ở vùng sâu, vùng xa có thể học hỏi từ các khóa học trực tuyến và mô phỏng ca mổ mà không phải rời khỏi nơi mình làm việc. Điều này giúp nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ở những nơi thiếu bác sĩ, từ đó góp phần giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân lực trong ngành Y tế.
Cùng với đó, một trong những ứng dụng quan trọng của AI trong ngành Y tế được GS. Nguyễn Thanh Thủy nhắc tới chính là phân tích dự đoán (predictive analytics), công nghệ này giúp bác sĩ dự đoán các vấn đề sức dụng AI để phát hiện sớm những bất thường trên hình ảnh X-quang, giúp bác sĩ phát hiện các dấu hiệu của ung thư phổi và các bệnh lý khác chỉ trong vài phút. Điều này giúp tiết kiệm thời gian, giảm bớt khối lượng công việc cho bác sĩ và nâng cao khả năng chẩn đoán. khỏe tiềm ẩn của bệnh nhân trước khi chúng trở thành vấn đề nghiêm trọng. Thông qua việc phân tích dữ liệu về lịch sử bệnh lý và các chỉ số sức khỏe của bệnh nhân, AI có thể phát hiện sớm các dấu hiệu của các bệnh nguy hiểm như ung thư, tim mạch, tiểu đường hay thậm chí là đột quỵ.
Phân tích dự đoán không chỉ giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác mà còn giúp các bệnh viện quản lý nguồn lực hiệu quả hơn. Chẳng hạn, hệ thống AI có thể giúp dự đoán số lượng bệnh nhân cần khám trong ngày, giúp bệnh viện sắp xếp lịch khám hợp lý và giảm thiểu tình trạng quá tải. Việc này không chỉ giúp giảm bớt áp lực cho các bác sĩ mà còn nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
Thay đổi quy trình làm việc của bác sĩ và sự bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân
Một trong những khó khăn lớn khác mà các bác sĩ và nhân viên y tế hiện phải đối mặt chính là khối lượng công việc khổng lồ. Từ việc chẩn đoán bệnh đến theo dõi sức khỏe bệnh nhân, bác sĩ phải làm rất nhiều công việc thủ công và tiêu tốn nhiều thời gian. AI có thể giúp giải quyết vấn đề này bằng cách tự động hóa các quy trình, từ việc thu thập thông tin bệnh nhân, phân tích hình ảnh y khoa đến việc lập kế hoạch điều trị.
“Tại Việt Nam, một ví dụ điển hình là ứng dụng DrAid của VinBrain, sử dụng AI để phát hiện sớm những bất thường trên hình ảnh X-quang, giúp bác sĩ phát hiện các dấu hiệu của ung thư phổi và các bệnh lý khác chỉ trong vài phút. Điều này giúp tiết kiệm thời gian, giảm bớt khối lượng công việc cho bác sĩ và nâng cao khả năng chẩn đoán.
GS. TS Nguyễn Thanh Thủy (ngồi giữa) phát biểu tại một hội thảo về trí tuệ nhân tạo. Ảnh: NVCC
Không chỉ giúp bác sĩ tiết kiệm thời gian, AI còn giúp giảm thiểu sai sót trong quá trình chẩn đoán. Khi mà bác sĩ có thể dựa vào các hệ thống AI để phát hiện các bất thường, họ sẽ có thêm thời gian để xem xét và đưa ra các quyết định điều trị chính xác hơn. Điều này góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân, đồng thời giảm thiểu rủi ro trong công tác khám chữa bệnh”, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam chia sẻ.
Cũng theo GS. Thủy một trong những vấn đề lớn mà ngành Y tế toàn cầu nói chung và Y tế Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt chính là sự chênh lệch trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. Dù đã có những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ, nhưng vẫn còn hàng tỷ người trên thế giới chưa được tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản. Tại Việt Nam, tình trạng này càng rõ rệt ở các vùng sâu, vùng xa, nơi mà việc tiếp cận các dịch vụ y tế chất lượng còn rất hạn chế.
Theo GS. Thủy, AI có thể giúp giải quyết vấn đề này. “Một trong những giải pháp nổi bật là Telemedicine, hay còn gọi là y tế từ xa. Với Telemedicine, người dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có thể được bác sĩ tư vấn và khám bệnh ngay từ xa thông qua điện thoại di động hoặc máy tính bảng. Điều này giúp họ tiếp cận được các dịch vụ y tế chất lượng mà không cần phải di chuyển xa xôi.
Trong đại dịch COVID-19, Telemedicine đã chứng tỏ giá trị của mình khi mà mọi người cần duy trì khoảng cách xã hội. AI đã giúp các bác sĩ có thể tiếp tục chăm sóc bệnh nhân, đưa ra chẩn đoán và kê đơn thuốc mà không cần tiếp xúc trực tiếp. Đây là một giải pháp tuyệt vời trong bối cảnh khủng hoảng y tế toàn cầu và là một minh chứng rõ ràng cho khả năng bình đẳng hóa trong chăm sóc sức khỏe nhờ AI".
Từ đề tài nghiên cứu đến áp dụng thực tiễn AI trong y tế
Một trong những thành tựu trong ứng dụng AI vào điều trị, hỗ trợ người bệnh đã thành công bước đầu tại Việt Nam được GS. Nguyễn Thanh Thủy nhắc tới đó là thiết bị Blife hỗ trợ giao tiếp cho bệnh nhân ALS (bệnh xơ cứng teo cơ một bên).
“Một trong những bệnh nhân mắc ALS nổi tiếng thế giới đó chính là nhà vật lý học Stephen Hawking. Căn bệnh khiến cơ thể người bệnh bị liệt hoàn toàn, không thể giao tiếp, hoạt động bình thường. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến người bệnh mà còn khiến việc chăm sóc, điều trị gặp nhiều khó khăn, vì mọi người phải đoán ý thông qua cử chỉ và hiểu biết về tính cách, thói quen của bệnh nhân”, GS. Thủy giải thích.
Chính từ lý do này, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Công nghệ, ĐHQG Hà Nội đã thiết kế, phát triển thiết bị Blife giúp người bệnh ALS có thể giao tiếp dễ dàng hơn. Đây là hệ thống giao tiếp người - máy thông minh dựa trên tích hợp các công nghệ trí tuệ nhân tạo, thực tại ảo (VR) và thực tại ảo tăng cường (AR).
Thiết bị Blife giúp người bệnh ALS có thể giao tiếp dễ dàng hơn. Ảnh: NVCC
Thiết bị được thiết kế gồm xe đẩy và màn hình có thể quay các hướng. Màn hình máy gắn camera chuyên dụng có thể đọc chuyển động mắt và hiển thị tín hiệu trên màn hình, chuyển thành âm thanh ra loa. Thông qua bàn phím ảo, người bệnh có thể dùng mắt để chọn hình ảnh biểu tượng, tổ hợp ký tự tiếng Việt. Máy cũng hỗ trợ người dùng lướt web, tìm kiếm thông tin, tương tác mạng xã hội, xem video, viết email…
Hệ thống đã được nhóm nghiên cứu phối hợp với Bệnh viện Quân y 103 sử dụng trên một số bệnh nhân. Kết quả cho thấy, người bệnh chức năng mắt khỏe, có thể nhập trung bình 40-50 ký hiệu/phút, người có chức năng mắt yếu hơn, tốc độ nhập 15-20 ký hiệu/phút. Theo GS. Thủy, cơ chế dùng mắt để điều khiển thiết bị vốn là một thách thức vì mắt của con người thường được sử dụng để quan sát, nhận biết môi trường thông qua ánh sáng, chứ không phải để điều khiển.
“Cái khó chính là làm thay đổi chức năng tự nhiên của mắt, giúp người bệnh tương tác được với các thiết bị điện tử. Nếu thiết kế không khéo sẽ khiến việc tương tác chậm, gây mệt mỏi cho người sử dụng. Chính vì vậy, nhóm đã mất 3 tháng mới tìm ra cách gõ phím bằng mắt tốt nhất, giúp người bệnh sử dụng nhanh và hiệu quả hơn”, ông nói.
Được biết, trên thế giới cũng có thiết bị hỗ trợ tương tự, nhưng giá thành cao, khoảng 17.000 - 25.000 USD, dùng ngôn ngữ tiếng Anh nên khó sử dụng cho người Việt. Trên thị trường cũng có một số thiết bị phát hiện chuyển động mắt chuyên dụng nhưng đòi hỏi kiến thức và kỹ năng công nghệ thông tin rất cao. Vì vậy nhóm nghiên cứu dự định đưa sản phẩm BLife tới người bệnh có nhu cầu với mức chi phí tối thiểu, phù hợp để người Việt có thể chi trả được và dễ sử dụng.
GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy đánh giá, giải pháp lướt web, tương tác mạng xã hội có thể dùng chung cho nhóm người bệnh ALS với các ngôn ngữ khác. BLife bước đầu giúp nâng cao chất lượng cuộc sống cho những người bệnh, giúp dễ dàng biểu lộ mong muốn, duy trì kết nối và tiếp tục đóng góp giá trị cho xã hội.
Nhóm nghiên cứu đang tiếp tục phát triển các phương pháp nhằm khai thác tín hiệu điện não để tăng tốc độ tương tác trong giao tiếp và phát triển các kỹ thuật để người bệnh có thể điều khiển thiết bị nhà thông minh như điều hòa, đèn, quạt, tivi…, nhờ đó giảm sự phụ thuộc vào sự hỗ trợ của những người xung quanh.
Những thách thức trong việc triển khai AI tại Việt Nam
Mặc dù AI có tiềm năng lớn trong việc cải thiện hệ thống y tế, nhưng theo GS.TS. Nguyễn Thanh Thủy, việc triển khai công nghệ này tại Việt Nam hiện vẫn gặp phải nhiều khó khăn. Trong đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu, thiếu sự kết nối giữa các hệ thống dữ liệu và chi phí đầu tư cao là những thách thức lớn đối với các bệnh viện, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa.
Các nhà cung cấp công nghệ AI y tế cũng đang phải đối mặt với một vấn đề không nhỏ, đó là việc thu thập dữ liệu chất lượng cao. Hệ thống lưu trữ dữ liệu ở nhiều bệnh viện hiện nay còn chưa đồng bộ và chuẩn hóa, dẫn đến việc dữ liệu không thể được tích hợp hiệu quả vào các hệ thống AI. Điều này không chỉ làm giảm độ chính xác của các thuật toán mà còn ảnh hưởng đến tính hiệu quả khi ứng dụng AI vào công tác chẩn đoán và điều trị. Bên cạnh đó, vấn đề quyền riêng tư của bệnh nhân cũng là một thách thức lớn, khi mà dữ liệu y tế nhạy cảm luôn phải được bảo mật một cách chặt chẽ, đồng thời cũng phải đáp ứng các yêu cầu pháp lý về bảo vệ quyền lợi người bệnh.
Một khó khăn khác là thiếu một khung pháp lý rõ ràng cho phát triển và ứng dụng AI trong y tế. Điều này tạo ra sự không chắc chắn về trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan, làm chậm quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển sản phẩm.
“Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến các nhà cung cấp công nghệ mà còn ảnh hưởng đến quá trình xây dựng các chính sách y tế, khiến cho sự phát triển của AI trong ngành Y tế gặp nhiều trở ngại. Về phía các cơ quan quản lý, họ cũng đang đối mặt với những khó khăn lớn do thiếu khung pháp lý và tiêu chuẩn quản lý AI trong y tế. Việc thiếu một hệ thống pháp lý rõ ràng khiến các cơ quan chức năng gặp khó khăn trong việc giám sát và kiểm định chất lượng các sản phẩm AI, từ đó ảnh hưởng đến sự an toàn và hiệu quả khi triển khai các công nghệ này trong bệnh viện”, GS. Thủy chia sẻ.
Những yếu tố trên đã tạo nên một bức tranh đầy thách thức trong việc triển khai AI trong ngành Y tế tại Việt Nam. Tuy nhiên, đây cũng là những vấn đề cần được giải quyết để tạo ra một nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của AI trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
“AI đang mở ra những cơ hội lớn để cải thiện hệ thống y tế tại Việt Nam. Mặc dù còn đối mặt với nhiều thách thức, nhưng với sự phát triển của công nghệ và sự tiên phong của các bệnh viện, AI chắc chắn sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giảm bớt gánh nặng cho đội ngũ nhân viên y tế và giúp người dân tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Việc áp dụng AI trong y tế sẽ là một bước đi dài nhưng rất cần thiết, giúp Việt Nam xây dựng một hệ thống y tế hiện đại và hiệu quả hơn trong tương lai”, GS. Thủy khẳng định.
Trung Sơn