Tài sản mã hóa chỉ được chào bán, phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài
Thời gian qua, thị trường tài sản mã hóa ở Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh chóng. Việt Nam được xếp vào nhóm 3 quốc gia hàng đầu thế giới, với quy mô ước tính hơn 220 tỷ USD giá trị tài sản mã hóa và khoảng 20 triệu người sở hữu. Tuy nhiên, tài sản mã hóa đã có một thời gian dài trong "vùng xám" pháp lý, điều này khiến nhiều dự án tài sản mã hóa đã bị lợi dụng thành công cụ lừa đảo, từ huy động vốn đa cấp trá hình, sàn đầu tư ảo đến mô hình "token hóa bất động sản" không có thật.
Số liệu của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an cho thấy, chỉ tính riêng từ đầu năm 2025 đến nay, đã phát hiện gần 1.500 vụ việc lừa đảo qua mạng, gây thiệt hại hơn 1.660 tỷ đồng. Trong đó, riêng các hoạt động liên quan giao dịch tiền ảo, tiền mã hóa lên tới hơn 1.500 kênh, hội nhóm.
Thí điểm giao dịch tài sản mã hóa trong 5 năm từ ngày 9/9/2025. (Ảnh minh họa: KT)
Trước thực tiễn đó, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 05/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa, mở ra bước ngoặt mới trong cấu trúc thị trường vốn - nơi tài sản mã hóa có thể trở thành kênh huy động và phân bổ vốn hợp pháp, minh bạch.
Theo đó, thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam được thí điểm trong 5 năm, doanh nghiệp Việt Nam được phát hành tài sản mã hóa dựa trên tài sản thực, không gồm chứng khoán và tiền đồng. Song loại tài sản này chỉ được chào bán cho nhà đầu tư nước ngoài và giao dịch thông qua các tổ chức cung cấp dịch vụ do Bộ Tài chính cấp phép.
Lý giải về quy định “tài sản mã hóa chỉ được chào bán, phát hành cho nhà đầu tư nước ngoài” theo Điều 6 của Nghị quyết 05/2025, ông Tô Trần Hòa, Phó Trưởng ban phát triển thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cho rằng, việc này xuất phát từ tinh thần thận trọng nhằm bảo vệ nhà đầu tư và kiểm soát rủi ro trong giai đoạn đầu.
Mặc dù có tới 19 - 21 triệu tài khoản liên quan đến tài sản số tại Việt Nam, song con số này chưa phản ánh chính xác quy mô thực tế, do nhiều người sở hữu nhiều tài khoản. Quan trọng hơn, năng lực hiểu biết của nhà đầu tư Việt Nam còn thấp, trong khi thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ lừa đảo tài sản số.
Chỉ 5 năm qua, hàng trăm nghìn nhà đầu tư Việt Nam đã mất hàng chục nghìn tỷ đồng từ các vụ lừa đảo; điển hình như: các vụ Antex, Ifan, Pincoin, Sky Mining, Coolcat, Lion Group...
“Tiền bị chuyển đi trong tích tắc, việc truy hồi hoặc bồi thường gần như bất khả thi nếu xảy ra gian lận. Vì vậy, việc mở cửa thị trường cần đi kèm khả năng giám sát và xử lý hiệu quả”, ông Tô Trần Hòa cho hay.
Theo đại diện UBCKNN, giai đoạn đầu, Việt Nam chỉ cho phép chào bán và phát hành tài sản mã hóa cho nhà đầu tư nước ngoài, vừa để thu hút vốn quốc tế, vừa có thời gian hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao nhận thức công chúng. Song song, các cơ quan quản lý sẽ xây dựng chương trình đào tạo, truyền thông và nâng cao kiến thức tài chính cho người dân, giúp họ hiểu rõ quyền lợi, rủi ro và trách nhiệm khi tham gia thị trường.
“Sức hấp dẫn của thị trường không nằm ở việc mở cửa ngay, mà ở chất lượng sản phẩm, tính thanh khoản, minh bạch thông tin và độ an toàn của dịch vụ”, ông Tô Trần Hòa nói thêm.
Nên cho phép nhà đầu tư chuyên nghiệp trong nước được mua tài sản mã hóa
Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV lại cho rằng, cần phát triển từng bước và không hạn chế nhưng nếu chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia, Việt Nam sẽ tự đánh mất tiềm năng nội lực. Vì vậy, nên cho phép nhà đầu tư chuyên nghiệp trong nước được mua tài sản mã hóa.
TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV
“Tiêu chí “chuyên nghiệp” có thể mở rộng: ngoài kinh nghiệm về chứng khoán, yêu cầu có chứng chỉ, bằng cấp được đào tạo về tài sản số, kể cả từ các khóa học quốc tế hoặc trực tuyến. Điều này vừa đảm bảo an toàn, vừa thúc đẩy dân trí về tài chính và công nghệ”, TS. Cấn Văn Lực nêu quan điểm.
Ông Lực cho rằng, khi thị trường tài sản mã hóa vận hành, thanh toán bằng đồng Việt Nam dưới dạng số là điều tất yếu. Do đó, Ngân hàng Nhà nước cần đẩy nhanh nghiên cứu và thử nghiệm tiền số do ngân hàng nhà nước phát hành (CBDC), tránh tình trạng Việt Nam “tụt hậu” trong xu hướng này.
“Không nên loại trừ chứng khoán mã hóa khỏi phạm vi điều chỉnh của Nghị định 05. Nếu không cho phép token hóa chứng khoán, chúng ta mãi chỉ giao dịch theo cách cũ, trong khi thế giới đã tiến rất xa. Việc phân chia nhỏ cổ phần và giao dịch chứng khoán qua nền tảng số sẽ tạo thêm kênh huy động vốn minh bạch, ít rủi ro và dễ tiếp cận hơn cho nhà đầu tư nhỏ lẻ”, ông Lực nhấn mạnh, đồng thời cho rằng, cần coi giáo dục tài chính là nền móng của thị trường minh bạch. Cần thành lập một quỹ đào tạo báo chí và chuyên gia về tài sản số, có thể khởi đầu từ các cơ quan báo chí lớn, giúp xã hội hiểu đúng về thị trường mới này.
“Để đón đầu làn sóng tài sản số, Việt Nam cần đầu tư mạnh vào hạ tầng dữ liệu, lưu trữ, năng lượng và bảo mật, học theo mô hình của Trung Quốc khi đặt trung tâm dữ liệu ở vùng mát hoặc dưới lòng biển nhằm tiết kiệm điện năng và duy trì an toàn. Cơ quan quản lý cần yêu cầu các công ty cung cấp dịch vụ giao dịch tài sản số phải tách biệt tài khoản tiền – tài khoản tài sản, đồng thời ký quỹ bắt buộc để bồi thường thiệt hại khi xảy ra sự cố”, TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị.
Sự thành công của thị trường tài sản số Việt Nam phụ thuộc vào khả năng dung hòa hai yếu tố: An toàn và đổi mới. Nếu quá thận trọng, Việt Nam có thể bỏ lỡ làn sóng tài chính số toàn cầu; nhưng nếu mở cửa ồ ạt mà thiếu hạ tầng và khung pháp lý, rủi ro thiệt hại sẽ rất lớn. Vì vậy, TS. Lực cho rằng, lộ trình phù hợp là thử nghiệm có giới hạn, song cho phép nhà đầu tư chuyên nghiệp trong nước tham gia, đồng thời đẩy nhanh hoàn thiện pháp lý về tiền số do ngân hàng nhà nước phát hành, tokenized securities và hạ tầng dữ liệu.
“Thị trường tài sản số là xu hướng không thể đảo ngược. Điều quan trọng không phải là cho phép hay không cho phép, mà là làm thế nào để quản lý và tận dụng nó một cách an toàn, hiệu quả và mang lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam”, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh.
Diệp Diệp/VOV.VN