10 năm qua kiên cố hóa trường lớp được thay đổi lớn nhờ xã hội hóa

10 năm qua kiên cố hóa trường lớp được thay đổi lớn nhờ xã hội hóa
6 giờ trướcBài gốc
Theo báo cáo Tổng kết công tác xã hội hóa về kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2013 - 2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy:
Năm 2013, cả nước có 41.397 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập. Trong đó có 12.131 cơ sở giáo dục mầm non, 15.232 trường tiểu học, 10.844 trường trung học cơ sở, 2.286 trường trung học phổ thông và 904 trường phổ thông có nhiều cấp học.
Tính trên địa bàn bàn cả nước có 553.181 phòng học các cấp mầm non, phổ thông công lập, số phòng học kiên cố khoảng 364.367 phòng, đạt tỷ lệ kiên cố hóa là 65,9%.
Ghi nhận từ báo cáo, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa rất thấp, đặc biệt là cấp học mầm non.
Theo đó, tỷ lệ kiên cố hóa trung bình cả nước chỉ là 47,7% (vùng Tây Bắc chỉ khoảng 36,5%, Tây Nguyên 35,4%, Bắc Trung Bộ chỉ khoảng 32,8%).
Tại cấp tiểu học tỷ lệ kiên cố hóa trung bình cả nước cũng chỉ là 61,6% (thấp nhất là vùng Tây Bắc chỉ khoảng 43%, Đồng bằng sông Cửu Long 48,4%).
Đến hết năm 2023, cả nước có gần 628.571 phòng học các cấp mầm non, phổ thông công lập (tăng 73.290 phòng học so với năm 2013). Trong đó, số phòng học kiên cố 545.375 phòng, đạt tỷ lệ kiên cố hóa là 86,6% (tăng 20,7% so với năm 2013).
Theo đó, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa bình quân của cả nước từ 83% trở lên (theo từng cấp học). Tuy nhiên, các vùng miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ kiên cố hóa vẫn thấp hơn bình quân của cả nước.
Về nhà công vụ cho giáo viên, trải qua thời gian, số lượng phòng công vụ giáo viên được xây dựng từ giai đoạn trước một phần đã xuống cấp, hư hỏng nặng không thể sử dụng.
Từ năm 2014 đến nay, do nguồn vốn trung ương hỗ trợ (trái phiếu Chính phủ là nguồn vốn chủ yếu để hỗ trợ các địa phương thực hiện kiên cố hóa và nhà công vụ cho giáo viên) cho lĩnh vực giáo dục hạn chế nên mới chỉ tập trung ưu tiên cho nhu cầu cấp bách là kiên cố hóa các phòng lớp học mà chưa tập trung thực hiện việc đầu tư xây dựng nhà công vụ cho giáo viên.
Theo số liệu thống kê hết năm 2023, nhu cầu nhà công vụ của các địa phương vẫn còn 10.794 phòng.
Thay đổi lớn nhờ công tác xã hội hóa giáo dục
Cũng theo báo cáo, trong giai đoạn 2013 - 2023, nguồn vốn xã hội hóa để đầu tư xây dựng phòng học và nhà công vụ cho giáo viên là rất lớn, góp phần không nhỏ vào việc tăng tỷ lệ phòng học kiên cố hóa ở các địa phương.
Cụ thể số tập thể, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xã hội hóa để kiên cố hóa trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên là khoảng trên 300 tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.
Theo đó, số phòng học được đầu tư từ nguồn xã hội hóa trong 10 năm là khoảng 36.000 phòng; số phòng công vụ cho giáo viên là khoảng 1.300 phòng; tổng số kinh phí xã hội hóa để đầu tư kiên cố hóa, xây dựng phòng học, phòng công vụ cho giáo viên ước khoảng 33.000 tỷ đồng; tổng diện tích đất đã sử dụng để đầu tư xây dựng mới, kiên cố hóa phòng học, phòng công vụ cho giáo viên từ các địa phương là khoảng 521,9ha.
Có thể thấy rằng, xã hội hóa giáo dục đang có những bước tiến tích cực với sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước và quốc tế.
Trên cơ sở đó, một số trường mầm non và phổ thông nhiều cấp học có yếu tố nước ngoài đã được thành lập, đáp ứng nhu cầu học tập của con em chuyên gia nước ngoài và học sinh Việt Nam.
Nhờ đó, học sinh và giáo viên có cơ hội tiếp cận với các chương trình đào tạo tiên tiến, tài liệu và phương pháp giáo dục hiện đại.
Trường mầm non xã Đại Đồng (Yên Bái) được PVFCCo tài trợ dãy phòng học khang trang trị giá 3,5 tỷ đồng. Ảnh: Đào Hiền
Đối với công tác tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, các địa phương đã triển khai lồng ghép tích cực các chương trình và đề án của Chính phủ nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị trường học phục vụ chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông theo lộ trình đổi mới chương trình và sách giáo khoa.
Tính đến nay, cơ sở vật chất của các trường mầm non và phổ thông tại nhiều địa phương đã được cải thiện đáng kể, đầu tư xây dựng khang trang, đồng bộ hơn và thiết bị dạy học được nâng cấp hàng năm.
Đặc biệt, các khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số và những vùng kinh tế khó khăn đã nhận được nhiều hỗ trợ để tạo điều kiện cho trẻ em đến trường thuận lợi hơn.
Ảnh minh họa: Đào Hiền
Thực tiễn còn tồn tại nhiều hạn chế
Mặc dù Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích xã hội hóa giáo dục, đặc biệt là các cơ chế ưu đãi về đất đai, miễn giảm thuế và hỗ trợ tài chính để tạo cơ sở pháp lý vững chắc và khung hành chính thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục song phong trào xã hội hóa vẫn chưa được triển khai đồng bộ và mạnh mẽ tại tất cả các địa phương.
Theo đó, công tác tuyên truyền và phát động phong trào xã hội hóa giáo dục hiện nay chưa thật sự hiệu quả, hoạt động tuyên truyền chưa thực hiện đồng bộ dẫn đến nhận thức hạn chế từ cộng đồng về tầm quan trọng của việc đóng góp và đầu tư vào cơ sở vật chất giáo dục.
Các chiến dịch kêu gọi sự tham gia của tổ chức và doanh nghiệp còn thiếu sáng tạo khiến việc huy động nguồn lực gặp nhiều khó khăn. Mặc dù có các chủ trương, chính sách từ Chính phủ, nhưng tại các cấp cơ sở, việc triển khai vẫn chậm và thiếu quyết liệt. Nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức đến việc thúc đẩy phong trào xã hội hóa, chưa tạo ra các chính sách ưu đãi thu hút đầu tư dẫn đến nguồn lực hạn chế, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa.
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều điểm trường lẻ, quy mô nhỏ rải rác tại các khu vực dân cư thưa thớt, gây khó khăn trong việc quản lý và sử dụng nguồn lực.
Việc phân bố trường học chưa hợp lý, với nhiều nơi duy trì điểm trường nhỏ lẻ, trong khi khu vực đông dân cư lại thiếu trường học đạt chuẩn. Nhiều công trình trường học vẫn chưa đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, khiến cơ sở vật chất xuống cấp nhanh chóng, đặc biệt ở vùng khó khăn.
Mặt khác, một số công trình không đảm bảo tiến độ và chất lượng, dẫn đến việc không sử dụng hiệu quả hoặc phải sửa chữa ngay sau khi đưa vào hoạt động.
Ghi nhận từ thực tế, một số tổ chức, doanh nghiệp đã tích cực tham gia xã hội hóa ở một số địa phương, tuy nhiên chỉ tập trung ở những địa bàn tổ chức, doanh nghiệp đó đang hoạt động. Các cơ sở giáo dục có điều kiện khó khăn về cơ sở vật chất chỉ tập trung tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, ít hoặc không có sự hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn thiếu thông tin và sự kết nối giữa cơ sở giáo dục và các tổ chức, doanh nghiệp dẫn đến công tác xã hội hóa ở các địa phương này còn chưa được cao.
ĐÀO HIỀN
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/10-nam-qua-kien-co-hoa-truong-lop-duoc-thay-doi-lon-nho-xa-hoi-hoa-post246479.gd