Hai dự án chống ngập trọng điểm chậm gần chục năm
Đợt triều cường ngày 24–25.10 trùng lúc mưa lớn khiến nhiều tuyến đường và khu dân cư ven sông ngập sâu, đặc biệt ở Thanh Đa – Bình Quới. Mực nước trên sông Sài Gòn đạt từ 1,68 đến 1,78 mét, vượt báo động I. Hàng trăm hộ dân phải kê cao đồ đạc, di chuyển tài sản để tránh thiệt hại. Nhiều tuyến đường như Trần Xuân Soạn (quận 7 cũ), Nguyễn Hữu Cảnh (quận 1 cũ), (TP.Thủ Đức cũ) rơi vào tình trạng tê liệt, xe chết máy hàng loạt. Khu vực bờ kè hầm Thủ Thiêm (phường An Khánh) cũng bị ngập sâu do triều đạt đỉnh, trùng thời điểm tan tầm.
Mưa lớn kéo dài cộng triều cường khiến nhiều đoạn đường ngập sâu hơn bánh xe
Hình ảnh người dân bì bõm giữa trung tâm đô thị hiện đại một lần nữa đặt ra câu hỏi về tiến độ các dự án chống ngập hàng chục nghìn tỉ đồng mà TP.HCM đang triển khai. Sau gần một thập kỷ đầu tư, hai dự án trọng điểm vẫn trong tình trạng dở dang, gây nhiều lo ngại cho cơ quan quản lý và người dân.
Dự án đầu tiên là “Giải quyết ngập do triều khu vực TP.HCM có xét đến yếu tố biến đổi khí hậu – giai đoạn 1”, thường được gọi là “dự án chống ngập 10.000 tỉ đồng”. Khởi công giữa năm 2016, dự án có tổng vốn đầu tư gần 10.000 tỉ đồng, gồm 6 cống kiểm soát triều lớn, 68 cống nhỏ, gần 8 km đê kè và hệ thống trạm bơm tiêu thoát nước. Theo kế hoạch ban đầu, dự án sẽ hoàn thành vào năm 2018.
Thế nhưng, đến nay sau gần 10 năm thi công, khối lượng đã đạt trên 90%, toàn bộ hệ thống vẫn chưa thể vận hành. Các hạng mục chính như cống Bến Nghé, Tân Thuận, Phú Xuân hay Mương Chuối vẫn dang dở. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ vướng mắc về cơ chế tài chính, hợp đồng BT (xây dựng – chuyển giao) và thủ tục nghiệm thu kỹ thuật.
Cụ thể, dự án do một doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư theo hình thức BT, đổi đất lấy hạ tầng. Tuy nhiên, khi quỹ đất thanh toán ban đầu bị điều chỉnh, thành phố phải bổ sung danh mục đất khác, làm phát sinh việc xác định giá trị tài sản, điều chỉnh phụ lục hợp đồng và chờ thẩm định lại. Cùng lúc đó, nguồn vốn vay tái cấp từ ngân hàng bị gián đoạn, khiến dự án dừng thi công từ năm 2020 đến giữa năm 2024 mới được khởi động trở lại.
Tại buổi làm việc với cử tri tháng 9.2025, đại diện Ban Quản lý dự án cho biết thành phố đang tập trung hoàn thành hai cống lớn Bến Nghé và Mương Chuối trước, phấn đấu đưa toàn bộ dự án vào vận hành cuối năm 2026. Dù vậy, mốc thời gian này vẫn phụ thuộc vào tiến độ xử lý các vấn đề tài chính và pháp lý đang tồn tại.
Dự án thứ hai là “dự án nạo vét, cải tạo kênh Tham Lương – Bến Cát – rạch Nước Lên” với tổng vốn đầu tư hơn 8.000 tỉ đồng. Công trình dài 32 km, có vai trò tiêu thoát nước cho khoảng 15.000 ha đất đô thị, giảm ngập cho các quận Tân Bình, Bình Tân, Gò Vấp và khu vực phía Tây Bắc thành phố. Đến giữa năm 2025, khối lượng mới đạt khoảng 70%. Thời hạn hoàn thành được lùi sang năm 2026.
Sự chậm trễ của hai dự án lớn này khiến hiệu quả chống ngập của TP.HCM chưa đạt kỳ vọng. Nhiều khu vực thấp trũng như quận 8, Nhà Bè, Bình Thạnh, khu Thanh Đa – Bình Quới, Trần Xuân Soạn vẫn thường xuyên ngập sâu mỗi khi mưa lớn hoặc triều cường dâng. Người dân phải dùng bao cát chắn nước, kê cao vật dụng, thậm chí đóng tạm bờ bao trước cửa nhà. “Năm nào cũng nghe nói sắp hết ngập, nhưng năm nào nước cũng tràn vào,” một cư dân Thanh Đa chia sẻ.
Hy vọng nào cho TP.HCM
TP.HCM đang chuyển hướng sang các giải pháp phi công trình như tăng diện tích thấm nước, mở rộng không gian xanh, xây hồ điều tiết và khuyến khích sử dụng vật liệu thấm nước cho vỉa hè. Theo các chuyên gia, việc dựa vào hạ tầng cứng như nâng đường, xây cống hay lắp máy bơm công suất lớn chỉ là giải pháp ngắn hạn, trong khi cốt lõi là phải khôi phục khả năng tự điều tiết nước tự nhiên của đô thị.
TP.HCM cần kiểm soát ngập úng do mưa, triều cường, đồng thời hoàn thiện hệ thống thoát nước tại các khu vực ngoại vi
PGS.TS Lê Trung Chơn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững – Đại học Tài nguyên và Môi trường TP.HCM, nhận định: “Thành phố cần kết hợp hài hòa giữa giải pháp công trình và phi công trình. Việc tăng lớp phủ xanh, giữ không gian thấm nước, quy hoạch sinh thái và quản lý dòng chảy đô thị là hướng đi dài hạn, vừa chống ngập, vừa giảm hiệu ứng nhiệt đô thị”.
Một trong những khó khăn lớn hiện nay là cơ chế điều phối. Công tác chống ngập được phân tán cho nhiều cơ quan như Sở Xây dựng, Sở Giao thông Vận tải, Trung tâm Quản lý Hạ tầng kỹ thuật, nhưng chưa có đầu mối thống nhất chịu trách nhiệm toàn diện. Sự chồng chéo này khiến nhiều dự án dù có tiến độ tốt vẫn thiếu liên kết, dẫn đến hiệu quả thấp. Một số chuyên gia đề xuất thành lập cơ quan điều phối thống nhất về thoát nước và chống ngập, tương tự mô hình của các thành phố lớn như Bangkok hay Singapore.
Từ góc độ kỹ thuật, thách thức lớn nhất là sụt lún đất và mực nước biển dâng. Theo số liệu đo đạc, nền đất TP.HCM lún trung bình 1–2 cm mỗi năm, có nơi lên tới 4 cm. Khi cộng với tác động của biến đổi khí hậu, các khu vực ven sông như quận 8, Nhà Bè, Bình Chánh, Thủ Đức cũ sẽ chịu áp lực ngập ngày càng nặng. Vì vậy, các công trình chống ngập hiện nay cần được thiết kế với tầm nhìn ít nhất 30 năm, tính đến kịch bản mực nước biển dâng 50–80 cm vào năm 2050.
TS Võ Kim Cương, nguyên Phó Kiến trúc sư trưởng TP.HCM, cho rằng quy hoạch tổng thể chống ngập của thành phố vẫn thiếu tính đồng bộ. “Hệ thống hồ điều tiết chỉ phát huy hiệu quả khi kết nối với đê bao, cống ngăn triều và kênh rạch. Nếu mỗi công trình vận hành riêng lẻ, hiệu quả sẽ rất thấp. Thành phố cần tư duy lại theo hướng hệ thống, gắn hạ tầng kỹ thuật với quy hoạch đô thị và phân bổ dân cư hợp lý,” ông nói.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, TP.HCM được dự báo là một trong những đô thị chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khu vực Đông Nam Á. Việc hoàn thành các công trình chống ngập không chỉ mang ý nghĩa kỹ thuật mà còn là vấn đề an sinh xã hội và phát triển bền vững.
Nguyễn Tuyết