3 thách thức chiến lược của công nghiệp bán dẫn Việt Nam

3 thách thức chiến lược của công nghiệp bán dẫn Việt Nam
5 giờ trướcBài gốc
Động thái tăng tốc của các "ông lớn" công nghệ
Việt Nam đang dần khẳng định vị thế trụ cột trong bản đồ bán dẫn toàn cầu, thể hiện qua động thái đầu tư và mở rộng hoạt động nghiên cứu & phát triển (R&D) của hàng loạt tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, với “độ phủ sóng” trải dài từ Hà Nội, Bắc Ninh, Đà Nẵng đến TP.HCM.
Đằng sau làn sóng dịch chuyển của dòng vốn FDI đó, còn cho thấy quyết tâm lớn của các địa phương trong việc muốn làm chủ công nghệ bán dẫn, tạo tiền đề quan trọng để góp phần đưa Việt Nam thực hiện mục tiêu tham gia vào chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu.
Sở Khoa học và công nghệ TP.HCM vừa công bố kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam và chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050. Trọng tâm của chương trình có sáu mục tiêu: xây dựng cơ chế; phát triển hạ tầng; đào tạo nhân lực; thúc đẩy nghiên cứu - hợp tác quốc tế; hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và đẩy mạnh công tác truyền thông.
Ở phía bên kia bán cầu, trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc tại Hoa Kỳ cách đây ít ngày, ông Nguyễn Văn Được, Chủ tịch UBND TP.HCM đã tiếp kiến bà Sarah Kemp, Phó chủ tịch phụ trách quan hệ Chính phủ quốc tế của Tập đoàn Intel. Tại buổi gặp gỡ, bà Sarah Kemp cho biết, lĩnh vực rất có tiềm năng phát triển hiện nay tại TP.HCM là chuỗi cung ứng ngành bán dẫn. Tháng 4 vừa qua, các nhà cung ứng toàn cầu của Intel đã đến Việt Nam, hỗ trợ các doanh nghiệp Việt có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của Intel.
“Intel đang có kế hoạch tiếp tục tổ chức buổi gặp gỡ tương tự vào năm 2026, đúng dịp kỷ niệm 20 năm Intel đầu tư tại Việt Nam, hy vọng có thể cùng khu công nghệ cao TP.HCM tổ chức thành công sự kiện này”, bà Sarah Kemp nhấn mạnh.
Kế hoạch trong ngắn hạn, Intel đang nỗ lực giúp TP.HCM đào tạo phát triển nguồn nhân lực bằng việc hợp tác với các cơ quan của thành phố về AI.
“Tuần tới, tập đoàn sẽ phối hợp Sở Tài chính TP.HCM đào tạo AI cho công chức, cũng như phối hợp với Đại học Quốc gia TP.HCM tổ chức chương trình đào tạo AI cho sinh viên”, bà Sarah Kemp cho biết.
Intel đã đầu tư khoảng 1,5 tỷ USD vào nhà máy tại khu công nghệ cao TP.HCM, trở thành một trong những biểu tượng cho sự thành công của chính sách thu hút đầu tư công nghệ cao của TP.HCM.
“Thành phố mong muốn Intel Products Việt Nam trở thành trung tâm xuất sắc về đóng gói và kiểm thử tiên tiến, là nơi những sản phẩm phức tạp nhất, giá trị nhất của Intel được hoàn thiện và ra mắt thế giới”, Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Văn Được kỳ vọng.
Cuối tháng 9 vừa qua, Tập đoàn Marvell Technology Inc. (Hoa Kỳ) cũng chính thức khai trương đồng loạt ba văn phòng mới tại TP.HCM và Đà Nẵng, đưa Việt Nam trở thành trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) lớn thứ ba toàn cầu của tập đoàn, chỉ sau Hoa Kỳ và Ấn Độ.
Từ một văn phòng nhỏ chỉ với 5 kỹ sư khi thành lập tại TP.HCM năm 2013, nhiệm vụ chỉ thực hiện kiểm định thiết kế, tới nay đội ngũ hơn 500 kỹ sư Việt đã trực tiếp tham gia toàn bộ quy trình thiết kế vi mạch - từ kiến trúc, thiết kế, mô phỏng, kiểm thử, đến phát triển phần mềm và kiểm định phần cứng.
Các sản phẩm mà Marvell góp sức như Marvell Alaska A 800G PAM4 DSP hay Nova 1.6 Tbps PAM4 DSP, không chỉ mang tính công nghệ cao mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai hạ tầng dữ liệu AI toàn cầu.
Động thái mở rộng của Marvell hay Intel tại Việt Nam không chỉ đơn thuần là chiến lược mở rộng hoạt động R&D, mà đằng sau đó đã cho thấy một niềm tin vào vai trò chiến lược của Việt Nam - trung tâm đổi mới về vi mạch bán dẫn toàn cầu.
“Việt Nam đã khẳng định vị thế trụ cột chiến lược trong mạng lưới R&D của Marvell. Các kỹ sư Việt đang tham gia vào những dự án công nghệ tiên tiến và phức tạp nhất trong ngành vi mạch bán dẫn", ông Lê Quang Đạm, Tổng giám đốc Marvell Việt Nam cho biết.
Ông Lê Quang Đạm, Tổng giám đốc Marvell Việt Nam.
Cuối năm ngoái, Chủ tịch Jensen Huang của Nvidia, một trong những công ty bán dẫn giá trị nhất thế giới, cũng đã khẳng định cam kết đưa Việt Nam là ngôi nhà thứ hai của tập đoàn này. Chính phủ cũng đã đề nghị đồng hành cùng Việt Nam với vai trò là nhà đầu tư chiến lược cùng thực hiện Nghị quyết 57, qua đó hỗ trợ Việt Nam nắm bắt cơ hội, bứt phá và trỗi dậy về khoa học công nghệ.
Để hiện thực hóa quyết tâm này, Chính phủ đã giao Trung tâm đổi mới sáng tạo ouốc gia (NIC) làm đầu mối phối hợp với cùng các đơn vị liên quan, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để tập đoàn này triển khai các hoạt động tại Việt Nam. Kết quả bước đầu đã hình thành hạ tầng nghiên cứu – phát triển, hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp AI, mở rộng hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực như giao thông thông minh, y tế số, sản xuất thông minh...
Những "ông lớn" công nghệ hàng đầu thế giới khác như Samsung, Renesas, Synopsys… cũng đều đã đặt nền móng hoặc mở rộng hoạt động trong R&D, thiết kế và hợp tác đào tạo nhân lực tại Việt Nam.
Cùng với làn sóng FDI, các tập đoàn công nghệ trong nước như Viettel, FPT cũng đang tăng cường mở rộng hoạt động vào lĩnh vực bán dẫn, từ thiết kế chip viễn thông đến chip công nghệ thông tin (IoT) và trí tuệ nhân tạo (AI). Chẳng hạn, Viettel đang xúc tiến kế hoạch xây dựng nhà máy đúc chip đầu tiên tại Việt Nam, hứa hẹn sẽ lấp đầy “mảnh ghép còn thiếu” trong chuỗi cung ứng bán dẫn quốc gia.
Một báo cáo của Deloitte phát hành năm ngoái chỉ ra rằng, Việt Nam hiện mới có hơn 40 doanh nghiệp hoạt động trong chuỗi giá trị bán dẫn, tập trung chủ yếu tại Hà Nội, TP.HCM và Đà Nẵng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này phần lớn tham gia ở khâu thiết kế, nghiên cứu và phát triển (fabless) và đóng gói - thử nghiệm (OSAT), trong khi các khâu đầu chuỗi như gia công chế tạo wafer (fab) vẫn còn vắng bóng.
Việc mở rộng sang các công đoạn phức tạp hơn như đóng gói tiên tiến và chế tạo wafer được xem là "bước chuyển" cần thiết để Việt Nam xây dựng năng lực sản xuất hoàn chỉnh.
TS. Bùi Xuân Minh, Trưởng nhóm nghiên cứu thiết kế bán dẫn và công nghiệp 4.0 tại Đại học RMIT Việt Nam, nhận định, Việt Nam hiện đã trở thành điểm đến của nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Intel, Samsung, Qualcomm, Renesas, Synopsys, Marvel và Faraday. Tuy nhiên, hiện các doanh nghiệp vẫn đang ở cấp bậc thấp trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn toàn cầu, với phần lớn hoạt động tập trung vào khâu lắp ráp, kiểm thử và đóng gói.
Vị chuyên gia của Đại học RMIT Việt Nam cũng nhận định, những động lực phát triển đang ngày càng rõ rệt. Chẳng hạn, việc thành lập ban chỉ đạo quốc gia do Thủ tướng đứng đầu, cùng kế hoạch chiến lược đào tạo 50.000 kỹ sư bán dẫn từ nay đến năm 2030, thể hiện cam kết mạnh mẽ từ cấp cao nhất.
“Chúng ta đang bước vào giai đoạn mang tính quyết định. Với các động thái đúng đắn ngay từ bây giờ, Việt Nam có thể trở thành thế lực đáng gờm trong cuộc đua bán dẫn ở khu vực Đông Nam Á”, ông Minh nói.
Những thách thức chiến lược đối với Việt Nam
Để dịch chuyển lên các phân khúc có giá trị cao hơn như thiết kế chip và sản xuất tiên tiến, Việt Nam cần giải quyết một cách căn cơ các rào cản mang tính hệ thống.
Thách thức đầu tiên là về nguồn nhân lực, việc thiếu hụt kỹ sư thiết kế vi mạch (IC Design) đang rất lớn, đây được xem là thách thức lớn nhất, thậm chí lớn hơn cả vốn đầu tư hay chính sách ưu đãi. Mặc dù nhu cầu tuyển dụng kỹ sư có thể tham gia dự án thực tế của các doanh nghiệp FDI là rất lớn, nhưng năng lực đào tạo của nhiều trường đại học trong nước vẫn còn khoảng cách đáng kể.
Theo PGS.TS Nguyễn Vũ Quỳnh, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Lạc Hồng, những việc cần làm ngay bao gồm: chuẩn hóa yêu cầu kỹ năng cho vị trí kỹ sư thiết kế vi mạch; tổ chức các khóa đào tạo 3 - 6 tháng trên nền tảng công cụ EDA (electronic design automation) quốc tế với các bài tập thiết kế chip thực tế quy mô nhỏ; triển khai chương trình thực tập có lương tại doanh nghiệp để sinh viên năm cuối rèn tay nghề và gắn bó với công việc.
Việc đào tạo giảng viên nòng cốt thông qua chuyên gia quốc tế hoặc doanh nghiệp để sẵn sàng mở rộng quy mô cũng rất cấp bách; và xây dựng phòng lab chung giữa trường – doanh nghiệp, với đầy đủ hạ tầng thiết kế và mô phỏng.
Song song với các giải pháp ngắn hạn, Việt Nam cần phát triển chương trình thạc sĩ định hướng công nghiệp kéo dài 1 năm, tập trung vào các chuyên đề then chốt như SoC, verification, low-power design.
"Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp bằng chính sách trợ cấp đào tạo, giảm chi phí bản quyền phần mềm EDA cho các trường và ban hành chuẩn chứng chỉ nghề nghiệp, qua đó giúp minh bạch hóa chất lượng đầu ra và tăng niềm tin của doanh nghiệp vào nguồn nhân lực nội địa", ông Quỳnh nói.
Dẫn thực tế bài học từ Đài Loan (Trung Quốc), Singapore hay Hàn Quốc, ông Quỳnh cho hay, mô hình học – làm song hành là chìa khóa thành công. Sinh viên không chỉ học kiến thức mà được tham gia ngay vào các dự án thiết kế thực tế, nhờ đó rút ngắn đáng kể thời gian để trở thành kỹ sư hoàn chỉnh.
Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng cách tiếp cận này thông qua liên minh ba nhà "nhà nước – nhà trường – nhà doanh nghiệp", trong đó doanh nghiệp giữ vai trò định hướng, trường đảm nhiệm đào tạo và nhà nước đóng vai trò kiến tạo chính sách.
Ngành bán dẫn không cho phép đi theo lối mòn đào tạo truyền thống. Nếu tận dụng cơ hội vàng từ dòng vốn FDI đang dịch chuyển, Việt Nam cần ngay lập tức triển khai mô hình đào tạo theo đơn đặt hàng, rút ngắn khoảng cách giữa giảng đường và nhà máy.
"Nếu làm tốt điều này, chỉ trong vài năm tới, chúng ta sẽ có thế hệ kỹ sư thiết kế vi mạch đủ sức đồng hành cùng các tập đoàn quốc tế, đồng thời đặt nền móng cho một ngành công nghiệp bán dẫn bền vững do chính người Việt làm chủ", ông khẳng định.
Chính phủ cần đóng vai trò dẫn dắt trong việc xây dựng chính sách ưu đãi và hạ tầng kỹ thuật cho ngành bán dẫn phát triển.
Thách thức tiếp theo được nhắc đến là rào cản về chính sách và hạ tầng kỹ thuật. Theo TS. Bùi Xuân Minh, Việt Nam đang thiếu vắng nhà máy chế tạo (Fab), việc chưa có nhà máy chế tạo tấm bán dẫn trong nước (với chi phí đầu tư cực lớn, từ 5-20 tỷ USD cho một nhà máy fab tiên tiến) là yếu tố hạn chế khả năng của Việt Nam tiến vào phân khúc sản xuất tiên tiến.
Chưa kể, yêu cầu rất cao về hạ tầng, ngành bán dẫn đòi hỏi hệ thống hậu cần chuyên biệt, bao gồm nguồn điện, nước ổn định, nguyên liệu đạt chuẩn sản xuất chip và hệ thống logistics hỗ trợ R&D công nghệ cao.
Về khung pháp lý, để cạnh tranh, Việt Nam không chỉ cần vốn đầu tư mà còn cần khung pháp lý mạnh mẽ về bảo vệ sở hữu trí tuệ và các thỏa thuận chuyển giao công nghệ với các tập đoàn hàng đầu.
“Để có thể cạnh tranh, chúng ta không chỉ cần vốn đầu tư mà còn cần những chính sách toàn diện, khung pháp lý mạnh mẽ về sở hữu trí tuệ và một hệ sinh thái tích hợp đầy đủ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo”, ông nói.
Thách thức lớn thứ ba cần giải quyết là cần làm rõ lộ trình phát triển và vai trò dẫn dắt của nhà nước.
Thạc sĩ Phạm Thái Sơn, giảng viên Trường đại học Công thương TP.HCM góp ý, để tự chủ thiết kế và sản xuất vi xử lý, Việt Nam cần một lộ trình dài hạn. Thời gian cụ thể sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nhân lực, hợp tác quốc tế, và các chính sách hỗ trợ.
"Nếu thực hiện một cách bài bản và quyết liệt thì hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu này trong vòng 10 đến 15 năm tới", ông Sơn nói.
Cụ thể, lộ trình cần ba giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 (từ 3 - 5 năm), bao gồm đào tạo nhân lực chất lượng cao, các trường đại học sẽ phải cải thiện chương trình đào tạo, đặc biệt là các ngành liên quan đến IC design, vi mạch và bán dẫn, đảm bảo chất lượng cao ngay từ đầu.
Đồng thời, cần xây dựng và nâng cấp các trung tâm R&D, phòng thí nghiệm thiết kế vi mạch, và các công cụ phần mềm EDA để hỗ trợ việc thiết kế chip...
Giai đoạn này cũng cần khuyến khích các startup, đặc biệt là startup trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn, tạo ra môi trường thuận lợi, bao gồm quỹ đầu tư và chính sách hỗ trợ để các startup trong nước có thể nghiên cứu và thử nghiệm các sản phẩm chip đầu tiên
Giao đoạn tiếp theo từ 5 - 10 năm, thực hiện các sản phẩm thử nghiệm, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bán dẫn.
Giai đoạn cuối là xuất khẩu và tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, sẽ không chỉ tiêu thụ sản phẩm nội địa mà còn có thể xuất khẩu chip ra thế giới, trở thành một công xưởng bán dẫn đáng tin cậy trong khu vực.
Ông Minh nhấn mạnh, Chính phủ cần đóng vai trò dẫn dắt trong việc xây dựng chính sách ưu đãi (thuế, trợ cấp, tài trợ vốn), đầu tư vào nhà máy chế tạo bán dẫn quốc gia, và đặc biệt là thúc đẩy hợp tác giữa các doanh nghiệp nội địa Viettel, FPT với các tập đoàn bán dẫn hàng đầu thế giới để đẩy mạnh chuyển giao tri thức.
Nếu tận dụng được "cơ hội vàng" từ dòng vốn FDI đang dịch chuyển và triển khai mô hình đào tạo mới một cách quyết liệt, Việt Nam có thể nhanh chóng xây dựng được thế hệ kỹ sư thiết kế vi mạch đủ sức đồng hành cùng các tập đoàn quốc tế, đặt nền móng cho một ngành công nghiệp bán dẫn bền vững do chính người Việt làm chủ.
Quốc Hải
Nguồn Nhà Quản Trị : https://theleader.vn/3-thach-thuc-chien-luoc-cua-cong-nghiep-ban-dan-viet-nam-d42515.html