4 trạng nguyên Bắc Giang làm rạng danh sử Việt

4 trạng nguyên Bắc Giang làm rạng danh sử Việt
một ngày trướcBài gốc
Đào Sư Tích và Đoàn Xuân Lôi là hai trạng nguyên ở thời Trần thuộc thế kỷ XIV. Đào Sư Tích, người làng Song Khê, xã Song Khê, huyện Yên Dũng (nay thuộc TP Bắc Giang) đỗ trạng nguyên năm 1374. Còn Đoàn Xuân Lôi là người làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình (Hiệp Hòa), đỗ trạng nguyên năm 1384. Như thế, Trạng nguyên Đào Sư Tích đỗ trạng nguyên trước Đoàn Xuân Lôi 10 năm. Cả hai cùng làm việc dưới triều Trần, cùng thời với nhau nhưng hai người ở khác vị trí.
Đền thờ Trạng nguyên Giáp Hải ở đồi Cốc, phường Dĩnh Trì (TP Bắc Giang). Ảnh: Quốc Hưng.
Đào Sư Tích là người có tài, thông minh, học giỏi. Khi thi Đình, bài văn thi của ông được đánh giá là bài luận văn hay nhất thời đó và được lưu truyền đến tận ngày nay. Khi dự thi, vua sách vấn bốn câu hỏi về việc cầu hiền, chọn người tài giúp vua, giúp nước. Cả bốn câu hỏi đều được Đào Sư Tích trả lời minh bạch, thông minh, biến hóa, mượn những tấm gương của các triều đại Trung Hoa để gắn với chuyện thời đại trong nước. Vì thế đến tháng 3 năm đó (1374), vua ban yến tiệc, mũ áo và cho Đào Sư Tích giữ chức Lễ Bộ thượng thư. Tức là người đứng đầu Bộ Lễ - một trong 6 bộ của triều đình.
Còn Đoàn Xuân Lôi, sau khi thi đỗ, ông được bổ nhiệm chức Quốc tử trợ giáo (tức là chức giúp việc giáo dục các giám sinh trường Quốc Tử Giám ở kinh đô). Theo các tài liệu, Đoàn Xuân Lôi là người thông minh, nhanh trí, hiểu biết và làm việc có kinh nghiệm. Tính ông cương trực, không thích kẻ xu nịnh, lộng quyền lấn át người khác. Bởi thế những điều ngang trái ông đều nói rõ để vua và bề trên liệu đường xét xử. Cho nên mới diễn ra sự kiện giữa Đoàn Xuân Lôi, Đào Sư Tích với Hồ Quý Ly mà sử sách ghi lại và lưu truyền đến tận ngày nay.
Sự kiện này được tóm tắt như sau: Vào năm 1392, Hồ Quý Ly cậy thế lộng hành soạn sách Minh Đạo dâng vua xem. Về việc này, Đoàn Xuân Lôi rất không bằng lòng nên đã viết thư lên vua. Nội dung phản đối sách của Hồ Quý Ly có ý cậy thế mà xem thường các bậc thánh hiền, các bậc hiền triết và muốn đề cao mình, muốn lấn át quyền vua, lấn át quyền thần, mang ý đồ cá nhân, muốn có mưu lạ, vua nên lưu ý. Thư này, trước khi trình vua, Đoàn Xuân Lôi đã trình Đào Sư Tích xem trước. Đào Sư Tích đồng tình nên Xuân Lôi mới gửi lên vua.
Thời đó, Hồ Quý Ly giữ chức Thái sư, quyền hành rất lớn, lại có tham vọng, lộng hành có ý tiếm ngôi vua. Sự việc Đoàn Xuân Lôi dâng biểu lên vua được Đào Sư Tích và các quan đồng tình khiến Hồ Quý Ly rất căm giận nên đã tìm cách hãm hại Đào Sư Tích, Đoàn Xuân Lôi bằng cách buộc vua Trần giáng Đoàn Xuân Lôi xuống làm Thượng thư hoàng môn thị lang, kiêm tri châu ái. Còn Đào Sư Tích bị giáng xuống làm Trung thư thị lang.
Do tình hình lúc đó Hồ Quý Ly lộng hành, thời thế rất rối ren nên Đào Sư Tích xin về quê an trí. Dẫu vậy, Hồ Quý Ly vẫn không để cho yên, nên nhân việc nhà Minh (Trung Quốc) luôn gây phiền hà, Hồ Quý Ly tâu với vua Trần vời Đào Sư Tích về triều và cử đi sứ. Do có tài ứng đáp nên vua nhà Minh phong cho Đào Sư Tích là "Lưỡng quốc trạng nguyên". Trong thời gian đi sứ, Đào Sư Tích đột ngột qua đời, thi hài ông được đem về Cổ Lễ, Nam Chân, Phủ Thiên Trường chôn cất, ông thọ 49 tuổi.
Còn Đoàn Xuân Lôi, vua biết ông là người trung trực, nhưng còn e ngại Hồ Quý Ly nên điều ông đi Ái Châu để tránh hậu họa. Ông ở Ái Châu chăm lo công việc chu đáo nên được thăng lên chức Trung thư hoàng môn thị lang, kiêm Thông phán ở Ái Châu. Khi ông mất được an táng ở Trâu Lỗ (Hiệp Hòa).
Bia đá đồi Cốc tại đền thờ Trạng nguyên Giáp Hải được công nhận là bảo vật quốc gia. Ảnh: Lệ Thanh.
Vị trạng nguyên thứ ba của đất Bắc Giang là Trạng nguyên Giáp Hải - vị này còn được gọi là Trạng Kế. Gọi ông là Trạng Kế vì Giáp Hải là người ở Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhỡn, phủ Lạng Giang, trấn Kinh Bắc. Giáp Hải đỗ trạng nguyên năm 1538, ông là người có tài, từng đi sứ nhà Minh (Trung Quốc) và làm quan đã trải Lục bộ thượng thư kiêm Đông các học sĩ, nhập thị kinh diễn, sau thăng tới Thái bảo, tước Kế Khê bá, đặc phong Sách Quận công, nhiều lần đi sứ phương Bắc và được phong Thiếu bảo.
Sự nghiệp của Giáp Hải trong vòng 40 năm kể từ năm 1538 đến 1577 được Phan Huy Chú đánh giá như sau: "Ông do văn chương thi đỗ làm quan. Bấy giờ ai cũng tôn trọng. Ông thường qua nam quan bàn việc, ứng đáp tinh thông. Người Minh gọi ông là Giáp Tuyên phủ mà không gọi tên". Thời gian này, Giáp Hải nổi tiếng với bài thơ "Họa cái bèo" với Mao Bá Ôn. Bài thơ này được coi là bài thơ có sức mạnh đuổi được 10 vạn quân giặc đang lăm le ở biên giới nước ta.
Chỉ là, lúc bấy giờ Mao Bá Ôn đem đại quân áp sát, có ý nhòm ngó nước ta, thanh thế rất mạnh nhưng vì nhà Minh còn nhớ trận đại bại Chi Lăng - Xương Giang nên còn chưa dám động binh. Mao Bá Ôn đóng quân ở gần biên giới và gửi cho bên ta một lá thư có bài thơ "Vịnh cái bèo", ý rằng ví quân Đại Việt tựa như cái bèo trôi trên mặt nước vậy. Mục đích là thăm dò ý chí của ta thế nào. Nhận được thư này, triều đình giao cho Giáp Hải biên thư trả lời. Giáp Hải lĩnh mệnh, viết thư trả lời và làm bài thơ họa lại bài của Mao Bá Ôn. Mao Bá Ôn đọc bài thơ họa đó, biết lòng dân ta rất đoàn kết, không sợ bất cứ uy lực nào nên đã ra lệnh lui quân, từ bỏ ý đồ xâm chiếm nước ta lần nữa. Bài thơ họa lại của Giáp Hải bằng chữ Hán, dịch ra chữ Việt đại ý như sau:
Dày như vẩy gấm, mũi kim không thể xuyên qua
Mang áo giáp liền với rễ, chẳng cần phải sâu
Đường đường tranh mặt nước với mây trắng
Đâu để mặt trời rọi xuống nước sâu
Dù cho ngàn trùng sóng vỗ, khó mà phá nổi
Dù muôn trận bão dông, cũng mãi không chìm
Không ít cá, rồng núp ở dưới đó
Lưỡi câu của Lã Vọng biết đâu mà tìm.
Trong cuộc đời làm quan của Giáp Hải, ông đã từng giữ chức Thượng thư Bộ Lại, Thượng thư Bộ Hộ kiêm Đô ngự sử. Thượng thư Bộ Binh, chưởng bộ sự. Ông làm việc mẫn cán, hết lòng, tận tụy, tận hiếu, luôn luôn mong muốn chính sự thái hòa, dân khang vật thịnh. Do tuổi già sức yếu, ông xin vua Mạc cho về hưu nhiều lần nhưng vua không nghe. Mãi đến năm 1586 vua mới đồng ý. Khi ông về, vua đã tặng ông đôi câu đối: "Trạng đầu, tể tướng, đẩu nam tuấn/ Quốc lão, đế sư, thiên hạ tôn" (tạm dịch: Đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh cao như ngôi sao Đẩu của trời Nam/ Đã quốc lão, lại thầy của vua, được cả nước tôn trọng). Tác phẩm của ông để lại có mấy tập "Tiết trai thi tập", "Bang giao thi tập" và tấm bia hộp (nay là bảo vật quốc gia) lưu ở xã Dĩnh Trì, huyện Lạng Giang (nay là phường Dĩnh Trì, TP Bắc Giang).
Vị trạng nguyên thứ tư là Nguyễn Đình Tuân, người làng Trâu Lỗ, xã Mai Đình (Hiệp Hòa), đỗ đầu khoa thi 1901 ở kinh đô Huế (Đình Nguyên). Ông từng trải các chức tri huyện Việt Yên; giáo thụ Yên Bái; đốc học ở một số tỉnh, có nhiều học sinh thành đạt. Về sau khi ở Thái Nguyên, ông đem giống chè về trồng ở Tân Cương, thành chè Tân Cương. Do có công ấy, dân ở Tân Cương tôn ông là thành hoàng, thờ ở đình. Ông có tập thơ "Việt Nam quốc sử diễn ca" lưu truyền đến ngày nay. Ông là vị trạng nguyên cuối cùng của đất Bắc Giang.
Nguyễn Văn Phong
Nguồn Bắc Giang : http://baobacgiang.vn/4-trang-nguyen-bac-giang-lam-rang-danh-su-viet-postid411397.bbg