700 năm danh xưng Tuyên Quang - làm rõ những sự kiện lịch sử: Danh xưng Tuyên Quang

700 năm danh xưng Tuyên Quang - làm rõ những sự kiện lịch sử: Danh xưng Tuyên Quang
7 giờ trướcBài gốc
Tuyên thành vạn cổ án Thăng Long
Câu thơ chưa rõ do ai sáng tác và vào khi nào nhưng được nhiều người biết đến. Tuy là từ phiếm định, song vẫn hình dung ra chiều kích của thời gian, không gian. Vạn cổ chí ít cũng phải năm, bẩy trăm năm; còn, án là sự che chắn, ắt là thuộc vùng biên ải. Vị trí Tuyên thành là vậy. Ba lần xâm lược Đại việt (năm 1257, 1284, 1287) quân Nguyên luôn bố trí một cánh theo đường Vân Nam qua Tuyên Quang để đánh vào Thăng Long. Vua Lê Thánh Tông từng ban sắc dụ quan trấn thủ và phó tổng binh các xứ An Bang, Lạng Sơn, Tuyên Quang rằng: Các người chức vụ đứng đầu một phương, khống chế cả cõi biên thùy, phải phòng bị điều bất trắc, để ngăn ngừa giặc ngoại xâm. Cần phải khuyên bảo các tướng hiệu răn đe quân lính, không được bỏ trốn về nhà, để trống vị trí phòng thủ, kẻ nào trái lệnh thì trị nặng hơn luật thường.
Sông Lô chảy qua Tuyên Quang, với cảnh quan núi non hùng vĩ.
“Lê Hoa cùng Lô ở về Tuyên Quang. Lê Hoa là tên núi, nay gọi là Lê Hoa quan. Khi Thái tổ khởi nghĩa, sai quan ngự là Trần Ban sửa sang chỗ ấy. Sau chống cự chi binh của tướng Minh là Liễu Thăng ở đấy. Lô là tên sông lớn, phát nguyên tự Tam Giang chạy đến Kiền Lộ hợp với sông Thao, sông Đà. Tuyên Quang tức là đất Việt Tuấn bộ Tân Hưng ngày xưa. Đấy là phên giậu thứ ba ở phương tây vậy”. Trang 38.
Ngược dòng thời gian, khi danh xưng Tuyên Quang chưa xuất hiện miền đất này được biết đến với hai đơn vị hành chính cấp châu. Vị Long ở miền đông bắc, Đô Kim ở miền tây bắc. Thời bấy giờ, các châu miền thượng du thường do thổ ty cai quản. Vị Long là thổ ty họ Hà, Đô Kim là thổ ty họ Lương. Mỗi thổ ty hùng cứ như một sứ quân. Nhà Đinh, nhà Tiền Lê, những năm đầu nhà Lý nhiều lần triều đình cất quân đi dẹp nạn cát cứ nói trên. Năm 1013, Lý Thái Tổ đi đánh châu Vị Long. Năm 1015, Dực Thánh vương và Vũ Đức vương đánh châu Vị Long bắt được thủ lĩnh Hà Trắc Tuấn. Năm 1024, Lý Thái Tổ sai Khai Quốc vương đi đánh châu Đô Kim. Năm 1037, Lý Thái Tông sai Khai Hoàng Vương đánh các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên... Về sau, thấy biện pháp vũ lực không phải là thượng sách, triều đình nhà Lý chuyển sang thi hành chính sách “ky mi”. Ràng buộc các thổ ty bằng hôn nhân, phong chức tước, ban bổng lộc... Đã có ba công chúa nhà Lý lên ngược làm dâu. Năm 1082, vua Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho Hà Di Khánh châu mục châu Vị Long.
Chính sách mềm dẻo, hòa hiếu đem lại kết quả tích cực. Triều đình tập trung quyền lực quản trị đất nước, các thổ ty trở thành thần tử trấn trị biên cương, vùng đất phía bắc thành phên dậu bảo vệ kinh thành Thăng Long, các dân tộc đồng lòng chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước. Ở châu Vị Long, cao tổ Hà Đắc Trọng thần phục triều đình. Thổ ty họ Hà truyền 15 đời làm châu mục châu Vị Long, hai đời làm quan đến chức Thái Bảo, Thái Phó nhà Lý. Năm 1074, Hà Hưng Tông đem Thổ binh châu Vị Long tham gia trong đạo quân do Lý Thường chỉ huy đánh phá các căn cứ hậu cần của quân Tống ở Quảng Tây. Sau sự kiện này, Hà Hưng Tông được ban chức Hữu đại liêu ban đoàn luyện sứ. Năm 1078, Hà Di Khánh (con Hưng Tông) được kết làm em vua Lý (Nhân Tông).
Ở châu Đô Kim, cao tổ Lương Thế Sung làm Toát Thông Vương kiêm phụ đạo ở triều Lý. Các con Thế Sung là Văn, Hiến, Quế đều được phong hầu. Con của Quế là Hiếu Bão vì có công đánh Toa Đô được phong Quan phục hầu; Hiếu Bão sinh ra Thế Tắc được phong Lặc Thuận hầu; Thế Tắc sinh ra Cúc Tôn làm Quan sát sứ; Cúc Tôn sinh ra Nguyên Bưu. Cuối triều Trần, Nguyên Bưu làm quan đến chức hành khiển. Năm1399, Lương Nguyên Bưu cùng Trần Khát Chân, Trần Nhật Đôn mưu mưu sát Hồ Quý Ly bại lộ. Những người dự mưu và các liêu thuộc, thân thích gồm hơn 370 đều bị giết, tịch thu gia sản. Người họ Lương thoát nạn phải đổi họ, hoặc trốn tránh đi nơi khác. Từ đó về sau không thấy ghi chép nào về dòng họ Lương ở Đô Kim.
Trấn Tuyên Quang
Danh xưng Tuyên Quang nguyên là tên một con sông. Cứ liệu này xuất hiện trong sách “An Nam chí lược” do Lê Trắc soạn thế kỷ thứ XIII. Đó chính là sông Lô, mỗi thời, hay khi chảy qua vùng đất khác nhau mà có tên khác nhau. Có khi tên sông trở thành tên vùng đất và ngược lại.
“Xứ Tuyên Quang: Sông Cả (lại có tên là sông Lô, Minh sử gọi là sông Bình Nguyên) ở về bên trái sông Chảy, phát nguyên từ ti Giáo hóa trưởng quan tỉnh Vân Nam Trung Quốc, do mặt đông nam chảy xuôi, đến châu Vị Xuyên (xưa gọi là châu Bình Nguyên) xứ Tuyên Quang. Sông khá rộng, có 272 ghềnh thác nhưng thuyền lớn có thể đi suốt được từ trấn sở Tuyên Quang đến Hà Giang mất 19 ngày rưỡi.
(Lê Quý Đôn “Kiến văn tiểu lục” trang 359).
Thông tin xác đáng nữa về danh xưng Tuyên Quang là minh chuông Thông Thánh quán ở Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ (đền, miếu, am, quán là loại hình kiến trúc tín ngưỡng). Bài minh kể tài trí của Chiêu Văn Vương trong cuộc chiến chống giặc Nguyên trên đất Tuyên Quang.
Nhằm đối phó với quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ hai, vua Trần Thánh Tông ban chiếu sai em là Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật ra trấn thủ lộ Tuyên Quang.
Nhận trọng trách trấn thủ một trấn biên giới, Chiêu Văn Vương lệnh người đứng đầu các châu chỉnh đốn thổ binh, sửa khí giới, tích lương thảo. Đồng thời lệnh cho Tư xã (lý trưởng) phá dỡ hết các cây cầu lớn nhỏ; thúc dục người dân giấu hết lương thực, gia súc vào rừng. Dù một đấu gạo, một con gà con lợn cũng không để cho quân Nguyên bắt được. Năm 1285, cánh quân Nguyên từ Vân Nam tiến vào Đại Việt. Chiêu Văn Vương dựa thế hiểm bố trí trận địa phía hữu ngạn sông Chảy. Giao chiến với giặc gặp bất lợi, Chiêu Văn Vương rút lui men theo dòng nước đi xuống, nhìn thấy quân giặc đuổi theo ở hai bờ sông, đi từ từ, biết ở hạ lưu tất có quân giặc chặn ngang, vội sai người dò xem. Quả đúng như vậy. Ông liền dẫn quân lên bộ, tránh được mưu hiểm của giặc.
Về đến Bạch Hạc, nhân tết nguyên đán, Chiêu Văn Vương cùng bô lão trong làng và quân sĩ nguyện thề đồng lòng hợp sức đánh đuổi giặc Nguyên ra khỏi bờ cõi. Liền đó, Chiêu Văn Vương chỉnh đốn lực lượng, hội quân cùng Chiêu Thành Vương, Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đón đánh giặc Nguyên ở Hàm Tử quan. (Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô. Sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã - Đại cáo bình Ngô).
Với sự kiện Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật trấn thủ lộ Tuyên Quang, địa phương này chính thức trở thành đơn vị hành chính trực thuộc triều đình.
“Ông (Trần Nhật Duật) là bậc thân vương tôn quý, làm quan trải bốn triều, ba lần coi giữ trấn lớn”. (Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, trang 186. Nhà xb Văn hóa - Thông tin. Hà Nội, năm 2000).
(Bốn triều vua là Thái Tông, ThánhTông, Nhân Tông, Minh Tông; ba trấn lớn là Đà Giang, Tuyên Quang và Thanh Hóa).
Theo đó, Tuyên Quang không những đã là trấn còn là “trấn lớn”. Chiêu Văn Vương là một trong những danh tướng nhà Trần, cuối đời được phong tước Đại Vương Căn cứ tài liệu này thì danh xưng Tuyên Quang xuất hiện sớm nhất vào trước năm 1285, cách ngày nay hơn 700 năm.
Tương truyền, trong thời gian trấn thủ Tuyên Quang, Chiêu Văn Vương yêu và cưới một cô gái Tày làm vợ thứ. Đoàn đón dâu bằng thuyền trên sông Gâm. Chẳng may, khi đến ngã ba sông thì gặp mưa bão, cơn lũ từ phía sông Năng đổ về đã nhấn chìm thuyền hoa, khiến cô dâu tử nạn. Người dân sở tại thương tiếc khôn nguôi, xin Chiêu Văn Vương lập đền thờ nàng.
Thần phả đền Pác Tạ một lần nữa minh xác sự kiện Nhật Duật chỉ huy chống giặc Nguyên - Mông trên đất Tuyên Quang. Từ sau Trần Nhật Duật, nhà Trần tiếp tục cử quan lại cấp cao trấn thủ Tuyên Quang: Năm 1339, lấy Cung Định Vương Phủ làm Phiêu kỵ thượng tướng quân, lĩnh trấn Tuyên Quang.
Phù Ninh
Nguồn Tuyên Quang : http://baotuyenquang.com.vn/700-nam-danh-xung-tuyen-quang-lam-ro-nhung-su-kien-lich-su-danh-xung-tuyen-quang-208243.html