Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn ở xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. (Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình)
Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, Việt Nam đã sản sinh nhiều bậc hiền tài, trí tuệ và nhân cách vượt thời đại, để lại dấu ấn sâu đậm không chỉ trong văn hóa Đại Việt mà còn trong kho tàng di sản nhân loại.
Tại Kỳ họp lần thứ 43 vừa qua, Đại hội đồng Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 300 năm Ngày sinh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn.
Như vậy, đến nay, UNESCO đã thông qua nghị quyết vinh danh và cùng kỷ niệm năm sinh/năm mất của 8 Danh nhân Việt Nam.
Nguyễn Trãi - Danh nhân văn hóa thế giới, nhà quân sự lỗi lạc, nhà chính trị thiên tài
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 tại Kinh thành Thăng Long. Thân phụ ông là Nguyễn Phi Khanh và thân mẫu là Trần Thị Thái, con gái của quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi sớm nổi tiếng về tài đức và chí lớn.
Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh, năm sau ra nhận chức Ngự sử đài chánh trưởng dưới triều Hồ.
Từ năm 1407, giặc Minh đô hộ nước ta. Nuôi ý chí cứu nước, cứu dân, ông đến Lam Sơn tụ nghĩa, dâng Bình Ngô sách, dốc tâm huyết, một lòng thành giúp Bình Định vương Lê Lợi. Ông trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, giải phóng đất nước ở thế kỷ 15.
Kháng chiến thắng lợi, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô Đại cáo” - một áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc.
Đất nước hòa bình, với ước vọng tham gia “Duy tân đất nước, xây dựng nền thái bình muôn thuở,” Nguyễn Trãi tiếp tục hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội dưới Triều Lê; có công lớn trong việc tạo ra nền tảng kinh tế-xã hội, sự hòa hợp giữa “Nước và Dân” - nguồn lực xây dựng đất nước Đại Việt vững mạnh đương thời.
Nguyễn Trãi đã đi vào lịch sử và trở thành Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Trãi được UNESCO vinh danh năm 1980.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất
Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hành trình không ngừng nghỉ vì mục tiêu độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
“Nước” và “Dân” là lẽ sống, là điểm tựa và cũng là đích đến cuối cùng của mọi tư tưởng, hành động của Người: từ buổi ra đi tìm đường cứu nước, lãnh đạo Cách mạng tháng Tám thành công, đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam mới, đến việc lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ giành thắng lợi vẻ vang.
Vì nước, Người đã hiến dâng tất cả, trí tuệ, sức lực và cả cuộc đời mình, để đưa dân tộc Việt Nam từ bóng tối nô lệ đến độc lập, tự do; từ chia cắt đến thống nhất và phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất. (Ảnh: TTXVN)
Trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật, những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh kết tinh truyền thống văn hóa của Việt Nam, một truyền thống có từ nhiều nghìn năm trước và những lý tưởng của Người tiêu biểu cho khát vọng các dân tộc khác trên thế giới bởi họ đấu tranh nhằm khẳng định bản sắc văn hóa của mình và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Như lãnh tụ Cuba Fidel Castro đã ca ngợi: “Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc lớp những người đặc biệt mà cái chết là mầm mống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt.”
Tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở nên quen thuộc, gần gũi và được kính trọng đối với hàng triệu triệu người khắp nơi trên thế giới, được trân trọng ghi vào các bộ đại bách khoa, các bộ từ điển danh nhân lỗi lạc của thế giới.
Với tấm lòng yêu mến và kính trọng sâu sắc đối với Người, nhiều quốc gia trên thế giới đã lấy tên của Người đặt cho các quảng trường, đại lộ, nhà trẻ, trường học...; đã dựng phù điêu, tượng đài của Người trên quảng trường và trên các đường phố lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh được UNESCO vinh danh năm 1990.
Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh ra trong một gia đình khoa bảng nổi danh ở tỉnh Hà Tĩnh.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du trải dài suốt cuộc đời, rất phong phú và đồ sộ, gồm 3 tập thơ chính bằng chữ Hán: "Thanh Hiên thi tập," "Bắc hành tạp lục," "Nam trung tạp ngâm" với gần 250 bài và nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm, trong đó xuất sắc nhất là “Truyện Kiều.”
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hóa nhân loại, ghi dấu văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế.
"Truyện Kiều" đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hy Lạp, Mông Cổ, Arab, Nga...) với trên 60 bản dịch khác nhau. Tại mỗi quốc gia, tác phẩm để đời này đều được đón tiếp nồng nhiệt và đều có một đời sống riêng.
“Truyện Kiều” đã tôn vinh vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, vẻ đẹp của thơ ca, của cốt cách và tâm hồn Việt Nam, khẳng định vị trí số một của Nguyễn Du trong nền văn học dân tộc và từng bước chiếm lĩnh văn đàn thế giới như một trong những nhà thơ vĩ đại nhất.
Nguyễn Du được UNESCO vinh danh năm 2015.
Chu Văn An - "Người thầy của muôn đời"
Chu Văn An (1292-1370) tên thật là Chu An, tự là Linh Triệt, quê ở Hà Nội.
Chu Văn An đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp dạy học, với triết lý giáo dục nhân văn, không phân biệt giàu nghèo, học đi đôi với thực hành, học suốt đời để biết, để làm việc và cống hiến cho xã hội.
Tư tưởng đó của ông không những có ảnh hưởng tới các thế hệ người Việt Nam mà còn góp phần phát triển các giá trị nhân văn trong khu vực. Quan điểm giáo dục của ông có những giá trị tiến bộ vượt thời đại, gần gũi với mục đích giáo dục của thế giới hiện nay.
Là người chính trực, không màng danh lợi, nên khi thi đỗ Thái học sinh (tức Tiến sỹ) vào đời Trần Minh Tông (1314-1329), ông không ra làm quan mà trở về quê nhà mở trường dạy học - trường Huỳnh Cung. Sau này ông được vua Trần Minh Tông mời đến Thăng Long giữ chức Tư nghiệp (tức Hiệu trưởng) tại Quốc Tử Giám.
Nhân cách nhà giáo Chu Văn An đã được lưu truyền trong sử sách Việt Nam từ đời này qua đời khác. Ngày nay, tưởng nhớ tới đạo đức và sự nghiệp của ông, nhiều nơi trong nước có di tích thờ phụng ông.
Chu Văn An được UNESCO vinh danh năm 2019.
Nguyễn Đình Chiểu - chí sỹ yêu nước, nhà thơ lớn của dân tộc
Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu hay còn gọi là Cụ đồ Chiểu, tự là Mạch Trạch, Hiệu Trọng Phủ Hối Trai.
Trong lịch sử văn hóa Việt Nam, Nguyễn Đình Chiểu có vị trí danh dự, là một nhà văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Triết lý văn hóa của Nguyễn Đình Chiểu là triết lý nhân sinh.
Các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu để đời có truyện thơ Nôm: "Lục Vân Tiên," "Dương Từ - Hà Mậu," "Ngư tiều y thuật vấn đáp."
Các tác phẩm thơ lẻ, văn tế: "Chạy giặc," "Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc," "Văn điếu Trương Định," "Văn tế lục tỉnh sỹ dân trận vong"... Trong đó “Lục Vân Tiên” là một tác phẩm đầu tay chứa đựng triết lý, trọng đạo nghĩa, tiết tháo làm người. Còn tác phẩm “Văn tế Nghĩa sỹ Cần Giuộc” đã đưa ông lên vị trí người mở đầu cho dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ 19.
Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu.
Khác các tác giả trước đó, Nguyễn Đình Chiểu đã nhìn thấy sức mạnh to lớn của những người nông dân trong chống giặc xâm lược. Ông là người đầu tiên dùng văn chương tạc vào lịch sử chân dung những người nông dân-nghĩa binh, những tướng lĩnh đánh giặc.
Ông còn là thầy thuốc Nguyễn Đình Chiểu tận hiến cứu người, giúp đời bằng nghề thuốc của mình. Tác phẩm “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” là một tập hợp phong phú nhiều bài thuốc mà ông đã dày công tổng hợp, học hỏi và nghiên cứu, để lại giá trị cho muôn đời sau.
Nguyễn Đình Chiểu được UNESCO vinh danh năm 2021.
Hồ Xuân Hương - “Bà Chúa thơ Nôm”
“Bà Chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương là nữ thi sỹ nổi tiếng và tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ 18 đến nửa cuối thế kỷ 19.
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng độc đáo của Văn học Việt Nam. Bà đã viết những điều mà các nhà thơ khác cùng thời không dám viết. Tiếng nói vang dội nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói đấu tranh đòi nữ quyền, thể hiện trong các bài thơ như "Bánh trôi nước," "Thiếu nữ ngủ ngày," "Đèo Ba Dội," "Động Hương Tích," "Vịnh cái quạt," "Dệt cửi,""Đánh đu."
Ngoài ra, thơ bà còn là tiếng nói phê phán mạnh mẽ các thế lực (chế độ phong kiến, giáo lý Nho giáo, các giới, loại người “phàm phu, tục tử”) đã tạo ra những ràng buộc vô lý đối với con người, tạo ra sự bất bình đẳng giới giữa nam và nữ, tạo ra những lề thói, hủ tục cản trở sự tiến bộ, thể hiện rõ trong "Lấy chồng chung," "Không chồng mà chửa," "Thân phận người đàn bà."
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương không chỉ được đánh giá cao ở trong nước, thơ của bà được dịch ra 13 thứ tiếng khác nhau trên thế giới, trong đó tiếng Việt qua thơ Hồ Xuân Hương là một thứ ngôn ngữ nghệ thuật đa nghĩa, nhiều hàm ý, sắc sảo, độc đáo và tài hoa, đầy thách thức đối với các “tài tử," “văn nhân” đương đại khi chuyển ngữ, dịch thơ bà sang tiếng nước mình.
Hồ Xuân Hương được UNESCO vinh danh năm 2021.
Lê Hữu Trác - “Y thánh của Việt Nam”
Danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791) không chỉ là một nhà y dược học lớn mà còn là nhà thơ, nhà văn xuất sắc, nhà tư tưởng tiến bộ, có tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Là con của Tiến sỹ Thị lang Bộ Công triều, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sớm được theo cha học tập ở kinh thành Thăng Long và nổi tiếng là cậu học trò thông minh, toàn diện.
Lê Hữu Trác từng thi đậu Tam trường, rồi theo học binh thư và được sung vào quân đội chúa Trịnh. Ông là người quyết đoán, thẳng thắn, cương trực nhưng cũng rất hiền từ, là người có chí khí thanh cao nên khi chứng kiến những rối ren, ngang trái của xã hội, ông viện cớ anh trai mất và phải nuôi mẹ, ông xin về quê mẹ ở ẩn.
Thấy Lê Hữu Trác là người sáng dạ, lại có duyên với nghề y dược, lương y Trần Lộc đã truyền nghề cho ông. Nhận ra nghề y không chỉ có ích cho mình mà còn có thể giúp đời, giúp người, nên ông quyết chí theo học thuốc. Ông lấy hiệu danh là Hải Thượng Lãn Ông.
Dâng hương Đại danh Y Hải Thượng Lãn Ông tại Trường Cao đẳng Y tế Cà Mau. (Ảnh: Lê Huy Hải/TTXVN)
Hải Thượng Lãn Ông không chỉ lo cứu người mà ông còn luôn lo nghĩ tới việc viết sách để truyền bá y học Việt Nam đã được các bậc tiên y xây dựng từ trước và bản thân ông đã dày công đào tạo những thế hệ thầy thuốc Việt Nam có đạo đức và y thuật, đủ khả năng bảo vệ sức khỏe cho dân tộc.
Sự nghiệp y dược nổi tiếng của Hải Thượng Lãn Ông được tập hợp trong bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh,” gồm 28 tập, 66 quyển, đề cập từ nội khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nhi khoa, thương khoa, truyền nhiễm, cấp cứu đến y đức, vệ sinh phòng bệnh, phương pháp nuôi dưỡng, thậm chí cả chế biến các món ăn dưỡng bệnh...
Không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Ông sáng tác rất nhiều bài ca, lời lẽ giản dị, rõ ràng, để người dân có thể hiểu được, nhớ được về y học dân tộc, như: các bài ca về bào chế thuốc trong “Lĩnh Nam bản thảo,” các bài ca về vệ sinh trong “Vệ sinh yếu quyết diễn ca,” các bài ca về cách xem xét ngũ tạng và các mạch ở tay chân trong “Y gia quan miên”...
Lê Hữu Trác được UNESCO vinh danh năm 2023.
Lê Quý Đôn - nhà bác học lớn
Danh nhân Lê Quý Đôn (1726-1784) lúc nhỏ tên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường. Ông là con cả của tiến sỹ Lê Phú Thứ - người từng làm đến chức Hình bộ Thượng thư. Mẹ ông là con gái một tiến sỹ từng trải qua nhiều chức quan.
Từ nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng ham học, thông minh, có trí nhớ siêu đẳng. 17 tuổi Lê Quý Đôn đi thi Hương đỗ Giải nguyên. 27 tuổi ông đỗ Hội nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn (do khoa thi này không lấy Trạng nguyên). Sau khi đã đỗ đạt, ông được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê-Trịnh.
Sinh thời, nhà bác học Lê Quý Đôn được mệnh danh là “túi khôn của thời đại.” Ông được người đời ca tụng: “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn,” có nghĩa là mọi người trong thiên hạ ai không hiểu việc gì, muốn hỏi thì gặp Bảng nhãn Lê Quý Đôn.
Lê Quý Đôn đã để lại cho hậu thế khoảng 40 bộ sách bao quát hầu hết các tri thức đương thời.
Có thể kể tới một số công trình tiêu biểu: Về văn học có bộ sưu tầm “Toàn Việt thi lục;” tập thơ "Quế đường thi tập.”
Về sử học có “Đại Việt thông sử,” “Phủ biên tạp lục,” “Kiến văn tạp lục,” “Bắc sử thông lục.”
Về triết học có “Thư kinh diễn nghĩa,” “Dịch kinh phu thuyết,” “Xuân thu lược luận,” “Quân thư Khảo biện.”
Về kinh tế và nông học có bộ “Vân đài loại ngữ” rất đồ sộ...
Lê Quý Đôn được UNESCO vinh danh năm 2025./.
(Vietnam+)