Số liệu từ Cục Thống kê cho thấy, lũy kế 11 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 839 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ. Trong đó xuất khẩu thu về 430,1 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước (YoY); nhập khẩu đạt 409,6 tỷ USD, tăng 18,4%. Thặng dư thương mại hàng hóa trong kỳ đạt 20,53 tỷ USD.
8 mặt hàng xuất khẩu đạt từ 10 tỷ USD
Riêng tháng 11/2025, Việt Nam thu về 39,07 tỷ USD từ xuất khẩu hàng hóa, tăng 15,1% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 8,23 tỷ USD, giảm 17,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 28,8%, lên 30,84 tỷ USD.
Lũy kế 11 tháng, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 430,14 tỷ USD, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 102,41 tỷ USD, giảm 1,7%, chiếm 23,8% tổng kim ngạch; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 327,73 tỷ USD, tăng 23,1%, chiếm 76,2%.
Việt Nam có 36 mặt hàng đạt kim ngạch trên một tỷ USD. Riêng 8 mặt hàng có kim ngạch giá trị trên 10 tỷ USD, chiếm 70,3% tổng kim ngạch.
Theo đó, máy vi tính, điện tử và linh kiện tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất với 96,9 tỷ USD, tăng 48,5% so với cùng kỳ. Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đứng sau với 53,3 tỷ USD, tăng 11,6%; điện thoại và linh kiện với 52,6 tỷ USD, tăng 4,8%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 35,9 tỷ USD, tăng 6,7%; giày dép với 21,9 tỷ USD, tăng 5,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 15,8 tỷ USD, tăng 13,4%.
Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 15,5 tỷ USD, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước; thủy sản đạt 10,3 tỷ USD, tăng 12,6%.
Ngoài nhóm hàng trên, một số mặt hàng xuất khẩu khác ghi nhận tăng trưởng cao như đồ chơi, dụng cụ, thể thao và bộ phận tăng tới 143%, lên 8,37 tỷ USD; sản phẩm chất dẻo tăng 11,3%, đạt 6,7 tỷ USD; túi xách, ví vali mũ ô dù tăng 7,7%, đạt 4,1 tỷ USD; sản phẩm từ sắt thép tăng 22,3%, đạt 4,9 tỷ USD...
Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu sắt thép lại giảm 28,9% so với cùng kỳ, đạt 6,07 tỷ USD; dầu thô giảm 23,1%, còn 1,24 tỷ USD; xăng dầu giảm 51,6%, đạt 849 triệu USD...
Trong nhóm nông thủy sản, cà phê xuất khẩu tăng tới 60,9%, lên 7,9 tỷ USD; rau quả tăng 17,3%, đạt 7,7 tỷ USD; hạt điều tăng 19,4%, đạt 4,7 tỷ USD; hạt tiêu tăng 24,1%, đạt 1,5 tỷ USD; sắn và sản phẩm của sắn tăng 8,1%, đạt 1,1 tỷ USD.
Xuất khẩu gạo lại giảm 27,4%, còn 3,8 tỷ USD; chè giảm 9%, xuống mức 213 triệu USD...
Chi hơn 130 tỷ USD để nhập khẩu máy vi tính, điện tử và linh kiện
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 11/2025 của Việt Nam đạt 37,9 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chi 11,34 tỷ USD, giảm 8,8%; khu vực vốn đầu tư nước ngoài đạt 26,64 tỷ USD, tăng 31,2%.
Lũy kế 11 tháng, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 409,61 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 128,4 tỷ USD, tăng 1,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 281,21 tỷ USD, tăng 28%.
Việt Nam có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên một tỷ USD, riêng 6 mặt hàng đạt giá trị trên 10 tỷ USD, chiếm 57,7%. Bao gồm, máy vi tính, điện tử và linh kiện đạt 136,1 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 54,7 tỷ USD, tăng 23,8%.
Kim ngạch nhập khẩu vải tăng 1,3% so với cùng kỳ, lên 13,7 tỷ USD; chất dẻo tăng 6,7%, đạt 11,3 tỷ USD; điện thoại và linh kiện tăng 8,8%, đạt 10,2 tỷ USD và kim loại thường khác với 10,2 tỷ USD, tăng 17,9%.
Trong kỳ, một số mặt hàng nhập khẩu tăng cao như sản phẩm chất dẻo tăng 21,9% so với cùng kỳ, lên 9,7 tỷ USD; nguyên phụ liệu dệt may, da giày tăng 2,7%, đạt 6,6 tỷ USD; sản phẩm từ sắt thép tăng 26,2%, đạt 7,4 tỷ USD; sản phẩm từ kim loại thường khác tăng 51,1%, đạt 4,3 tỷ USD.
Kim ngạch nhập khẩu ô tô cũng tăng 23,8%, lên 9,5 tỷ USD, riêng ô tô nguyên chiếc tăng 30,6%, đạt 4,3 tỷ USD...
Trong khi đó, nhập khẩu sắt thép lại giảm 13,3% so với cùng kỳ, còn 9,9 tỷ USD; xăng dầu giảm 13,3%, đạt 6,19 tỷ USD; than đá giảm 13,9%, đạt 6 tỷ USD; dầu thô giảm 6,2%, đạt 7 tỷ USD.
Ở nhóm nông sản, Việt Nam chi 2,4 tỷ USD để nhập khẩu rau quả, tăng 17% so với cùng kỳ, lên 2,4 tỷ USD; hạt điều tăng 39,6%, đạt 4,2 tỷ USD; sữa và sản phẩm sữa tăng 23,3%, đạt 1,2 tỷ USD; đậu tương tăng 8,1%, đạt 1,09 tỷ USD.
Kim ngạch nhập khẩu lúa mì giảm 6,8% so với cùng kỳ năm trước, còn 1,38 tỷ USD; ngô giảm 3,5%, đạt 2,6 tỷ USD.
Lê Hồng Nhung