8 tỉ đô la rau quả, làm sao vượt qua giới hạn sản xuất nhỏ lẻ?

8 tỉ đô la rau quả, làm sao vượt qua giới hạn sản xuất nhỏ lẻ?
2 giờ trướcBài gốc
Tăng nóng nhưng còn manh mún
Theo báo cáo tiềm năng và thực trạng sản xuất rau quả của Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), cả nước có diện tích cây ăn quả hơn 1,3 triệu ha, tăng 63% so với năm 2014. Sản lượng năm ngoái gần 15 triệu tấn và 10 loại rau quả chủ lực chiếm 75% diện tích và quyết định gần toàn bộ giá trị xuất khẩu. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu rau quả năm ngoái 7,15 tỉ đô la và dự báo vượt 8 tỉ đô la năm nay.
Nguồn: Vinafruit
Nhưng quy mô lớn đi kèm rủi ro lớn. Sản xuất rau quả hiện chủ yếu theo hộ gia đình, trung bình 0,3 - 0,5 ha mỗi hộ, khiến chi phí phân bón, thuốc, nước tưới cao hơn so với canh tác quy mô trang trại. Việc thiếu chuẩn hóa kỹ thuật làm tăng chênh lệch chất lượng và khó xây dựng vùng nguyên liệu đáp ứng yêu cầu của các thị trường khó tính.
Với tỷ lệ diện tích đạt tiêu chuẩn Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) thấp, việc kiểm soát dư lượng và truy xuất nguồn gốc gặp nhiều thách thức, đặc biệt khi tiêu chuẩn xanh đang trở thành điều kiện bắt buộc ở các thị trường EU, Mỹ hoặc Nhật. Sản xuất lệ thuộc mạnh vào thời tiết, thiếu công nghệ sau thu hoạch và hạn chế về logistics lạnh làm ngành hàng khó giữ chất lượng ổn định quanh năm. Hệ quả nhiều lần ùn ứ, gặp khó trong xuất khẩu sầu riêng, thanh long là những hệ quả rất dễ thấy.
"Kẹt” ở mã số vùng trồng
Sầu riêng và thanh long là hai mặt hàng đóng góp cao nhất vào tăng trưởng rau quả. Riêng sầu riêng chiếm gần 2,5 tỉ đô la trong tổng kim ngạch năm ngoái. Thanh long tiếp tục duy trì vị thế tại Trung Quốc và một số thị trường châu Á.
Tuy nhiên, hai mặt hàng này hiện vướng phải điểm nghẽn về mã số vùng trồng. Hệ thống mã số được yêu cầu để truy xuất nguồn gốc, kiểm soát dư lượng và đáp ứng tiêu chuẩn nhập khẩu. Một số thị trường bắt buộc vùng trồng phải được cấp mã và có cơ chế giám sát.
Nguồn: Vinafruit
Vinafruit cho rằng lượng mã số vùng trồng được cấp chưa tương xứng với tốc độ mở rộng diện tích. Quy trình cấp mã phụ thuộc vào hồ sơ sản xuất, nhật ký canh tác và năng lực giám sát của địa phương. Trong khi đó, 96% nông dân chưa có nhật ký điện tử, khiến quá trình thẩm định cấp mã vùng trồng gặp khó khăn.
Nhiều lô hàng bị cảnh báo vì dư lượng vượt mức hoặc không truy xuất được đúng vườn. Sản phẩm có giá trị cao như sầu riêng chịu rủi ro lớn và có thể bị đình chỉ xuất khẩu chỉ vì vùng trồng thiếu minh bạch dữ liệu.
Hiện số vùng trồng được cấp mã chỉ chiếm khoảng 15 - 25% diện tích. Đây là nút thắt lớn nhất khiến các mặt hàng chủ lực không thể mở rộng quy mô xuất khẩu tương xứng.
Rộng cửa với FTA nhưng tiêu chuẩn xanh thành rào cản mới
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương, đa phương hiện nay mở ra cơ hội lớn cho rau quả. Thuế suất giảm mạnh, thị trường rộng và nhu cầu trái cây nhiệt đới tăng cao. Nhưng FTA đi kèm bộ tiêu chuẩn xanh ngày càng nghiêm ngặt: giảm sử dụng hóa chất, tiết kiệm nước, quản lý carbon và truy xuất đầy đủ. Gần đây nhiều thị trường còn đòi hỏi dán nhãn carbon.
Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thừa nhận xu hướng kiểm soát khí thải và yêu cầu về canh tác bền vững từ EU, thị trường lớn và uy tín, đang trở thành áp lực lớn. Chỉ tiêu lưu trữ carbon trong đất, sử dụng nước theo chuẩn, giảm thất thoát sau thu hoạch và chứng nhận an toàn đang là yêu cầu bắt buộc.
Trong khi đó, cơ giới hóa và hệ thống tưới tiết kiệm nước chưa được áp dụng rộng trong nông nghiệp của Việt Nam. Tưới nhỏ giọt chỉ phổ biến ở một số trang trại lớn, còn đa số nông dân vẫn tưới tràn, gây lãng phí 30 - 40% lượng nước trong mùa khô. Hệ thống tưới tự động kết hợp cảm biến còn rất ít. Chi phí đầu tư cao, thiếu hỗ trợ tín dụng và thiếu nhân lực vận hành khiến nhiều mô hình không mở rộng được.
Những năm qua, bài toán nước tưới ngày càng căng thẳng ở Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng khô hạn. Năng suất cây ăn quả phụ thuộc lớn vào khả năng tưới bù và quản lý ẩm độ, nhưng ở những vùng hạn chế về nguồn nước, cơ hội đáp ứng tiêu chuẩn xanh sẽ giảm đáng kể nếu không có chuyển đổi mạnh mẽ về kỹ thuật.
Làm sao vượt giới hạn sản xuất nhỏ lẻ?
Hơn một năm qua, khi mặt hàng sầu riêng tỉ đô gặp một số khó khăn về thị trường, kiểm nghiệm, mã vùng trồng, đã không ít chuyên gia, cơ quan quản lý đã khuyến cáo mở rộng và chuẩn hóa vùng nguyên liệu. Cấp mã số vùng trồng phải gắn với số hóa nhật ký canh tác và hệ thống giám sát vùng trồng theo thời gian thực. Khi dữ liệu minh bạch, doanh nghiệp mới có thể xây dựng vùng nguyên liệu đáp ứng tiêu chuẩn xanh và việc này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có tiêu chuẩn riêng cho sầu riêng, hy vọng các loại cây ăn trái khác cũng tương tự.
Một hộ nông dân ở Lâm Đồng dùng drone trong chăm sóc cây sầu riêng. Ảnh: Hồng Văn
Khó khăn hiện nay là nâng cấp hệ thống tưới và quản lý nước, nói nghe đơn giản nhưng không dễ trong điều kiện Việt Nam. Nhiều vùng có thể tiết kiệm 30% lượng nước nếu áp dụng tưới nhỏ giọt và tưới thông minh theo cảm biến nhưng nhà nông không dễ d8a62u tư và thay đổi thói quen sản xuất. Đây cũng là biện pháp giảm phát thải gián tiếp khi giảm lượng phân bón rửa trôi và thất thoát nước.
Các thiết bị như drone phun thuốc, máy làm cỏ tự động, hệ thống giám sát thị giác máy tính (phân tích hình ảnh trên máy tính) giúp giảm lao động và nâng hiệu quả vật tư. Không ít vùng trồng hiện đã dùng drone trong phun thuốc, nhưng cần có cơ chế tín dụng, hỗ trợ thuê - dùng chung để tránh gánh nặng chi phí cho nông dân.
Điều mà các doanh nghiệp và nhà nông đang thiếu, Nhà nước có thể cầm trịch là dữ liệu về thửa ruộng, sinh trưởng, nước tưới, nhật ký canh tác và mã số vùng trồng được chuẩn hóa, ngành hàng mới có thể kiểm soát chất lượng và dự báo rủi ro. Điều này là điều kiện tiên quyết để Việt Nam tận dụng các FTA và đáp ứng tiêu chuẩn xanh.
Xuất khẩu rau quả có thể vượt 10 tỉ đô la trong vài năm tới, nhưng để đạt được, ngành hàng cây ăn quả phải vượt qua giới hạn sản xuất nhỏ lẻ, thiếu dữ liệu và thiếu chuẩn hóa kỹ thuật.
Hồng Văn
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/8-ti-do-la-rau-qua-lam-sao-vuot-qua-gioi-han-san-xuat-nho-le/