Ý chí quật cường và thành quả vĩ đại của Cách mạng tháng Tám mãi là niềm kiêu hãnh, tự hào, mạch nguồn bất tận, tiếp tục cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới. Phóng viên TTXVN thực hiện 2 bài viết nêu bật giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập và không khí cả nước hân hoan đón mừng 80 năm Quốc khánh 2/9.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Bài 1: Biểu tượng chiến thắng đầy kiêu hãnh, tự hào
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào cũng như toàn thế giới về một nước Việt Nam độc lập, tự do. Đó cũng là lần đầu tiên, lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên, tung bay trên bầu trời của đất nước Việt Nam độc lập cùng giai điệu bài "Tiến quân ca" hùng tráng, làm hàng vạn người xúc động nghẹn ngào... 80 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn chung sức, đồng lòng với tinh thần "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”…
Biểu tượng chiến thắng của một dân tộc ngoan cường
Để chuẩn bị cho ngày trọng đại của toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh phụ trách thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ngày 28/8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người bắt đầu chấp bút khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới nước Việt Nam đã trở thành một nước “tự do và độc lập”. Ngày 30/8/1945, Bác hoàn thành bản dự thảo và mời một số đồng chí đến góp ý. Người đã từng khẳng định: “Trong đời, Bác đã viết rất nhiều tài liệu nhưng sung sướng nhất, sảng khoái nhất là những giờ phút soạn thảo bản tuyên ngôn này”…
Ngày 2/9/1945, vào giờ phút lịch sử thiêng liêng của toàn dân tộc, Người thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”… Từ đây, nhân dân ta đã thực sự trở thành người chủ của đất nước, tự quyết định vận mệnh, con đường phát triển của dân tộc mình dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, mở ra kỷ nguyên của độc lập, tự do.
Theo đánh giá của các chuyên gia: Tuyên ngôn Độc lập là biểu tượng cho chiến thắng của một dân tộc ngoan cường chống thực dân và phong kiến; khai sinh một nhà nước mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước độc lập đầu tiên trong hệ thống thuộc địa thế giới, báo hiệu sự thành lập của một chế độ xã hội mới - chính quyền công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu Á.
Cho đến nay, giá trị pháp lý và nhân văn của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị, là nguồn cổ vũ lớn lao cho dân tộc vượt qua những khó khăn, thách thức trong mỗi chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Giai điệu bất hủ của toàn dân tộc
Bản nhạc ''Tiến quân ca'' do nhạc sĩ Văn Cao chép tay đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Ngày 2/9/1945, vào thời khắc thiêng liêng của toàn dân tộc, khi lá cờ Tổ quốc được từ từ kéo lên, giai điệu bài "Tiến quân ca" do dàn quân nhạc trình tấu vang lên hùng tráng. Người chỉ huy dàn quân nhạc trình tấu “Tiến quân ca” khi ấy là nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên, nguyên chỉ huy Đoàn Quân nhạc Việt Nam. Ông nói, trong cuộc đời mình, ông đã chỉ huy nhiều cuộc trình diễn để lại ấn tượng sâu sắc nhưng buổi chỉ huy dàn nhạc hòa tấu Quốc ca trong ngày 2/9/1945 có ý nghĩa trọng đại nhất với ông cũng như 75 nhạc công tham gia hôm đó.
80 năm qua, bản “Tiến quân ca” - Quốc ca đã đồng hành cùng dân tộc, trải qua bao thăng trầm của lịch sử và trở thành giai điệu bất hủ của toàn dân tộc, phần thiêng liêng không thể thay thế trong tâm hồn, máu thịt mỗi người dân...
Họa sĩ Văn Thao (con trai nhạc sĩ Văn Cao) kể lại hoàn cảnh ra đời bài hát “Tiến quân ca”: Vào mùa Đông năm 1944, nhạc sĩ Văn Cao gặp cán bộ Việt Minh Vũ Quý tại ga Hàng Cỏ, được động viên tham gia hoạt động cách mạng và nhạc sĩ đã đồng ý.
Nhiệm vụ đầu tiên của nhạc sĩ Văn Cao là soạn một bài hát để động viên tinh thần cho đội quân cách mạng như tiếng kèn xung trận, hiệu lệnh xuất quân... Đó là chất xúc tác đầu tiên để nhạc sĩ Văn Cao cho ra đời “Tiến quân ca”. Ông Vũ Quý rất hài lòng khi nghe bài hát và đã đề nghị nhạc sĩ Văn Cao chép lại một số bản để chuyển lên chiến khu. Tháng 11/1944, “Tiến quân ca” lần đầu được in trên tờ báo Độc Lập, được chuyển đi khắp mọi nơi.
Tháng 8/1945, Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định mở Quốc dân đại hội tại Tân Trào. Sau khi nghe nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi hát, Bác Hồ quyết định chọn bài “Tiến quân ca” làm Quốc ca, bởi bài hát này vừa thể hiện được ý chí, khát vọng của dân tộc, lại gắn gọn, dễ thuộc lời, dễ phổ cập, giai điệu hùng tráng…
Ngày 13/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt “Tiến quân ca” làm Quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 17/8/1945, “Tiến quân ca” lần đầu tiên được cất lên trước đông đảo dân chúng trong cuộc mít tinh của nhân dân trước Nhà hát Lớn Hà Nội.
Ngày 19/8/1945, cũng tại Nhà hát Lớn Hà Nội, trước hàng ngàn quần chúng nhân dân, giữa một rừng cờ đỏ sao vàng, nhạc sĩ Văn Cao đã chỉ huy đội đồng ca thiếu niên tiền phong hát vang bài “Tiến quân ca”. Bài hát như một hồi kèn xung trận, đồng hành cùng quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền.
Năm 1946, Quốc hội khóa I đã quyết định chọn "Tiến quân ca" làm Quốc ca. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam, tại Điều 3 ghi rõ: "Quốc ca là bài Tiến quân ca".
Biểu tượng thiêng liêng của hồn nước, lòng dân
Máy bay trực thăng của Quân chủng Phòng không - Không quân treo cờ Tổ quốc bay vào khu vực trung tâm Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Trọng Đức/TTXVN
Ngày 2/9/1945, thiếu nữ Hà thành Lê Thi (tên thật là Dương Thị Thoa) cùng bà Đàm Thị Loan (dân tộc Tày) đã vinh dự được chọn làm người kéo lá cờ đỏ sao vàng trong thời khắc trọng đại của toàn dân tộc.
Cho đến nay, lá cờ đỏ sao vàng luôn là biểu tượng thiêng liêng của hồn nước, lòng dân, tình đoàn kết các dân tộc Việt Nam, thể hiện ý chí và là nguồn động lực cho toàn dân trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập, tự do và xây dựng Tổ quốc.
Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên vào cuối năm 1940, khi phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp và phát xít Nhật diễn ra mạnh mẽ tại khu vực miền Nam. Tháng 9/1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp mở rộng, bàn kế hoạch khởi nghĩa và nêu rõ cần một lá cờ để khẳng định tổ chức, thống nhất hiệu lệnh chỉ huy và động viên quần chúng; thực hiện di huấn của đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta là lấy cờ đỏ sao vàng làm lá cờ khởi nghĩa.
Ngày 23/11/1940, Khởi nghĩa Nam Kỳ diễn ra mạnh mẽ cùng sự xuất hiện lần đầu tiên của lá cờ đỏ sao vàng. Đến tháng 5/1941, tại rừng Khuổi Nậm (Pắc Bó, tỉnh Cao Bằng), Bác Hồ đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Lá cờ đỏ sao vàng được treo chính thức lần đầu tiên tại Hội nghị.
Năm 1941, chương trình Việt Minh xác định “sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc”. Đây được coi là văn bản đầu tiên chính thức quy định Quốc kỳ của nước Việt Nam là cờ đỏ sao vàng.
Ngày 22/12/1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp lá cờ đỏ sao vàng để làm lễ khai sinh Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngày 16/8/1945, Đại hội Quốc dân họp ở Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang) chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa, đã thống nhất quyết định: Quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Cách mạng tháng Tám thành công, cả nước rợp màu cờ đỏ sao vàng. Ngày 5/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 5-SL quyết định: Quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng.
Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I, ngày 2/3/1946, toàn thể đại biểu tại kỳ họp đã biểu quyết nhất trí chọn cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ nước ta. Nền cờ màu đỏ tượng trưng dòng máu đỏ, màu của nhiệt huyết, ý chí, niềm tin, “tinh thần hy sinh chiến đấu cách mạng của nhân dân Việt Nam”. Ngôi sao màu vàng tượng trưng “ánh sáng của vai trò lãnh đạo cách mạng”. Đó còn là màu da vàng và năm cánh sao tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm: sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Người dân xuống đường chụp ảnh với hình ảnh lá cờ Tổ quốc, thể hiện tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Ảnh: Khánh Hòa/TTXVN
Trong chặng đường vẻ vang của dân tộc luôn có sự hiện diện của Quốc kỳ như một biểu tượng thiêng liêng, trở thành niềm tin, ý chí, động lực có sức mạnh vô biên đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn để giành thắng lợi và trở thành niềm tự hào của dân tộc sánh vai cùng bạn bè quốc tế. Điển hình ngày 7/5/1954, lá cờ đỏ sao vàng tung bay trên nóc hầm của tướng Đờ Cát xác nhận sự toàn thắng của quân dân Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Vào 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ giải phóng ấy lại phấp phới tung bay trên nóc Dinh Độc Lập khẳng định sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước…
80 năm trôi qua kể từ ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, trong những ngày lễ trọng đại, sự kiện quan trọng của đất nước hay trên trường quốc tế, lá cờ đỏ sao vàng cùng giai điệu Quốc ca thiêng liêng vang lên luôn làm hàng triệu trái tim người Việt Nam trào dâng sự tự hào, niềm kiêu hãnh. Đó thực sự là những biểu tượng khắc sâu sự tự do, độc lập, toàn vẹn của đất nước, đoàn kết cùng phát triển của dân tộc Việt Nam…
Bài cuối: Tết Độc lập ơn Đảng, nhớ Bác
Phóng viên TTXVN (Tổng hợp)