An toàn hồ đập: Chuyển từ ứng phó thủ công sang quản trị thông minh

An toàn hồ đập: Chuyển từ ứng phó thủ công sang quản trị thông minh
một giờ trướcBài gốc
Từ tình trạng mưa lớn và lũ lụt diễn ra liên tục trong thời gian qua, ông nhận định thế nào về vai trò của các hồ đập đối với giảm lũ, cắt lũ?
Năm nay, thời tiết “dị thường và cực đoan” với chuỗi bão số 5, 9, 10, 11 di chuyển nhanh, quỹ đạo bất thường; mưa lớn và lặp lại liên tục, nhiều nơi ghi nhận mức “lịch sử”. Trong bối cảnh đó, quản lý và vận hành an toàn đập, hồ chứa đối mặt thách thức mới.
Hồ chứa hiện là công trình đa mục tiêu, vừa bảo đảm an toàn công trình và hạ du, vừa cấp nước cho sản xuất, sinh hoạt, đồng thời phục vụ phát điện. Vì vậy, quản lý vận hành phải liên ngành, gắn với hệ thống sông thay vì tiếp cận đơn lẻ. Ví dụ, vận hành hồ trên sông Cầu ảnh hưởng đến sông Thương, điều tiết trên sông Đà tác động đến giao thông và sản xuất ở đồng bằng sông Hồng, cho thấy cần quản lý theo quy mô toàn hệ thống.
Hiện nay, tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m3, trong khi nhiều hồ thủy điện lớn gấp nhiều lần. Do đó, việc thủy điện tham gia tích cực vào phòng chống lũ sẽ nâng hiệu quả bảo vệ hạ du, đặc biệt với các trận mưa lớn cực đoan.
Những đợt mưa lũ vừa qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế trong dự báo và vận hành liên hồ. Dung tích phòng lũ nhiều hồ không còn dư địa, đặt ra câu hỏi có nên hạ mực nước trước lũ thay vì duy trì mức dâng bình thường. Quyết định này phải dựa trên cơ sở khoa học, đảm bảo an toàn công trình, hạ du và nhu cầu tích nước.
Vai trò dự báo ngày càng quan trọng, trong khi nhiều đơn vị vẫn phụ thuộc mô hình quốc tế. Các nhà khoa học khuyến cáo xây dựng mô hình chuyên dụng theo từng lưu vực để nâng cao độ chính xác trong bối cảnh mưa lũ khó lường và vượt xa thông số thiết kế cũ.
Việc vận hành hồ đập, phối hợp liên hồ chứa hiện nay đang phải đối mặt với những thách thức nào, thưa ông?
Hiện cả nước có khoảng 7.315 đập (trong đó 592 đập dâng cao trên 5m) và 6.723 hồ chứa thủy lợi (4 hồ quan trọng đặc biệt, 895 hồ lớn, 1.540 hồ vừa, 4.284 hồ nhỏ; 213 hồ có cửa van điều tiết). Công tác quản lý an toàn tại các hồ quan trọng đặc biệt và hồ lớn được thực hiện tương đối tốt, nhưng ở nhóm hồ vừa và nhỏ do cấp xã quản lý, tỷ lệ hoàn thành các yêu cầu còn thấp: chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 51% có phương án bảo vệ, 9% được kiểm định an toàn, 31% có quy trình vận hành, 19% lắp thiết bị quan trắc và 11% cắm mốc phạm vi bảo vệ. Đây là nhóm công trình tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất.
Trong hai năm qua, hệ thống hồ chứa cơ bản tuân thủ quy trình vận hành; nhiều hồ như Cấm Sơn, Núi Cốc, Tả Trạch… đã phát huy hiệu quả cắt giảm lũ, giảm đáng kể lưu lượng xả, góp phần bảo vệ hạ du. Tuy vậy, hiệu quả tổng thể vẫn chưa đạt kỳ vọng, đặc biệt với hồ tràn tự do, không có cửa van điều tiết hoặc hồ không chủ động hạ mực nước do năng lực dự báo hạn chế. Hiện nay, việc vận hành hồ chứa đang đặt ra một số thách thức lớn.
Thứ nhất, nhiều quy trình vận hành dựa trên số liệu lịch sử cũ, không còn phù hợp, khi mưa vượt 4-6 lần trung bình tháng và lũ vượt kỷ lục chỉ trong 2-3 năm gần đây, đòi hỏi xem xét lại tần suất thiết kế và điều chỉnh quy trình theo giá trị cực đoan mới.
Thứ hai, quy trình hiện hành nặng tính “ổn định”, trong khi mưa lũ biến động nhanh, cần cách vận hành linh hoạt nhưng vẫn ưu tiên an toàn hạ du.
Thứ ba, chưa có quy chế phối hợp thống nhất giữa các địa phương trong cùng lưu vực; mỗi hồ vận hành riêng lẻ, thiếu cơ quan điều phối khi khẩn cấp. Phối hợp giữa hồ thủy lợi và thủy điện chưa đồng bộ, chia sẻ dữ liệu còn hạn chế, chưa có nền tảng giám sát tập trung. Việc phân bổ dung tích phòng lũ nhiều nơi chưa tối ưu, thiếu linh hoạt.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu phức tạp, các quy trình vận hành cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi để sử dụng hiệu quả dung tích chống lũ, nâng cao khả năng cắt giảm lũ cho hạ du, đặc biệt trong các đợt mưa lũ lớn.
Trước thực trạng cơ sở dữ liệu và công nghệ giám sát hồ đập còn nhiều hạn chế và thiếu đồng bộ, ngành thủy lợi có định hướng chiến lược nào về chuyển đổi số và đầu tư hạ tầng để đảm bảo an toàn đập?
Chuyển đổi số trong quản lý hồ chứa đang trở thành yêu cầu cấp bách. Hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu an toàn đập, hồ chứa nước còn nhiều hạn chế về tính đồng bộ, chuẩn hóa, độ tin cậy và khả năng dự báo, cảnh báo hỗ trợ ra quyết định.
Trang thông tin thuyloivietnam.vn đã được xây dựng từ năm 2016, nhưng hiện chỉ khoảng 900 hồ có thông số kỹ thuật tương đối đầy đủ; nhiều hồ còn thiếu dữ liệu quan trọng. Nhìn chung, mức độ ứng dụng công nghệ trong quản lý an toàn đập còn thấp, phần lớn vẫn thực hiện thủ công, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ.
Cả nước mới có gần 100 hồ chứa có cửa van được xây dựng phần mềm quản lý, giám sát, dự báo lũ đơn hồ, cùng 4 hồ quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên, các phần mềm này phát triển riêng lẻ, không có chuẩn dữ liệu thống nhất để kết nối, chia sẻ. Thiết bị quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu nghiêm trọng: chỉ 19% số hồ được lắp đặt, nhiều thiết bị xuống cấp, thiếu kết nối dữ liệu giữa các hồ trên cùng lưu vực hoặc sông xuyên biên giới.
Các hồ lớn ứng dụng cảnh báo tự động và đa kênh, trong khi nhiều hồ vừa và nhỏ vẫn thông báo thủ công bằng điện thoại, công văn, tiềm ẩn nguy cơ chậm trễ trong bối cảnh mưa lũ diễn biến nhanh. Cả nước mới có 411 hồ có bản đồ ngập lụt hạ du. Hạ tầng công nghệ thông tin từ máy chủ, mạng, lưu trữ đến khả năng xử lý dữ liệu lớn và AI đều hạn chế.
Mục tiêu ứng dụng công nghệ là bảo đảm tuyệt đối an toàn đập, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du, đồng thời tích nước tối đa cho sản xuất và sinh hoạt. Vì vậy, ngành thủy lợi phải chuyển từ mô hình quản lý truyền thống sang quản lý thông minh dựa trên nền tảng số, với hệ thống hỗ trợ ra quyết định đáp ứng yêu cầu “kịp thời, chính xác, linh hoạt, chủ động”.
Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi đã và đang gắn mã định danh cho các công trình, đồng thời phối hợp hoàn thiện chuẩn cơ sở dữ liệu ngành, trước mắt là với các hồ chứa. Định hướng là xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung với định dạng thống nhất và một phần mềm hỗ trợ ra quyết định dùng chung toàn ngành. Nhà nước sẽ hạn chế đầu tư dàn trải vào cảm biến, trạm đo, SCADA; thay vào đó, mua dịch vụ dữ liệu và dịch vụ hỗ trợ ra quyết định từ doanh nghiệp công nghệ theo hướng xã hội hóa.
Định hướng sắp tới, ngành thủy lợi phải cập nhật cơ sở dữ liệu mưa - lũ, thông số thiết kế và tiêu chuẩn an toàn đập để phù hợp với các giá trị cực đoan mới của thời tiết. Chuyển đổi số không chỉ dừng ở việc số hóa dữ liệu, mà phải giúp ngành giải quyết các bài toán thực tế: dự báo lũ, tính toán dung tích phòng lũ và hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực.
Biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan, ngành thủy lợi sẽ định hướng chuyển đổi tư duy quản lý như thế nào và đâu là những giải pháp tổng thể để nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro đối với hệ thống hồ đập, hồ chứa hiện nay?
Định hướng thời gian tới là chuyển mạnh sang cách tiếp cận quản lý và quản trị rủi ro, quản lý thống nhất theo lưu vực và liên lưu vực sông thay vì tách biệt từng hồ hay từng ngành. Các giải pháp phải kết hợp đồng thời giữa “phần cứng” và “phần mềm”: vừa cải tạo, nâng cấp công trình theo yêu cầu mới, vừa đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, dữ liệu và mô hình dự báo phục vụ vận hành. Hồ chứa cần được xác định rõ là công trình đa mục tiêu: cắt giảm lũ, bảo đảm an toàn công trình và hạ du, đồng thời cấp nước cho dân sinh và sản xuất.
Một trong những yêu cầu quan trọng là nghiên cứu nâng dung tích phòng lũ bằng cách sử dụng linh hoạt khoảng chênh giữa mực nước dâng bình thường và mực nước lũ thiết kế, thay cho phương thức vận hành mang tính “giữ an toàn” cố định như trước. Việc phối hợp chặt chẽ giữa thủy lợi và thủy điện, cùng ứng dụng công nghệ và dữ liệu hiện đại, được coi là nền tảng để bảo vệ hạ du và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh khí hậu ngày càng cực đoan.
Đồng thời, ngành sẽ nâng cao năng lực dự báo - cảnh báo, tăng cường kết nối và khai thác dữ liệu từ các hệ thống, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ khí tượng, cùng các mô hình mưa - dòng chảy và thủy lực. Mục tiêu là từng bước chuyển từ “dự báo” sang mức độ “thông báo đủ tin cậy”, giúp đơn vị vận hành chủ động hạ mực nước đón lũ, tận dụng tối đa dung tích phòng lũ mà vẫn bảo đảm an toàn.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng dự kiến trình Quốc hội sửa đổi Luật Thủy lợi giai đoạn 2027-2028 và xem xét thay thế Nghị định 114/2018/NĐ-CP, tập trung vào các nội dung như điều chỉnh mực nước trước lũ, vận hành linh hoạt, nâng dung tích phòng lũ, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu và áp dụng phần mềm dùng chung.
Nguồn VnEconomy : https://vneconomy.vn/an-toan-ho-dap-chuyen-tu-ung-pho-thu-cong-sang-quan-tri-thong-minh.htm