Gia đình ông Nguyễn Đức Minh, thôn Lan Đình, xã Thành Thịnh đầu tư trồng giống dâu lai đạt sản lượng trên 30 tấn/ha. (Ảnh: Tiến Khánh/TTXVN)
Trấn Yên là huyện có diện tích trồng dâu nuôi tằm lớn nhất tỉnh Yên Bái với gần 1.000 ha. Để phát triển cây dâu và chế biến tơ tằm, huyện Trấn Yên tập trung triển khai nhiều giải pháp đồng bộ; trong đó, áp dụng khoa học kỹ thuật và liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị là những yếu tố then chốt gia tăng giá trị kinh tế.
Những ngày cuối tháng 4, đi dọc bờ sông Hồng chạy qua các xã Thành Thịnh, Báo Đáp, huyện Trấn Yên đâu đâu cũng thấy nương dâu xanh mướt uốn lượn cùng dòng sông.
Gia đình chị Nguyễn Thị Phương, thôn Đồng Trạng, xã Báo Đáp trồng 18 sào dâu (6.480 m2) để phục vụ lá cho việc nuôi tằm. Trước đây, gia đình chị nuôi tằm theo phương pháp cũ mất nhiều thời gian, sản lượng lại thấp. Nhưng từ năm 2021, chị Phương áp dụng khoa học kỹ thuật trong thâm canh cây dâu, nuôi tằm trên khay trượt và sử dụng né gỗ ô vuông đã giúp gia đình chị giảm công lao động, giảm tình trạng kén đôi và bán được giá cao.
Gia đình chị Nguyễn Thị Phương, thôn Đồng Trạng, xã Báo Đáp, huyện Trấn Yên áp dụng nuôi tằm bằng khay trượt giúp giảm công lao động, năng suất kén cao, vòng tằm tăng lên gấp đôi. (Ảnh: Tiến Khánh/TTXVN)
Chị Phương chia sẻ, trước đây nuôi tằm chủ yếu trên sàn nhà mất nhiều diện tích, công lao động và bệnh tật nhiều. Mỗi năm chỉ thu về khoảng 60-70 triệu đồng. Hiện nay, áp dụng khay trượt giúp chị giảm công lao động, ít bệnh tật và năng suất kén cao, vòng tằm tăng lên. Một lứa tằm trước đây chỉ nuôi được khoảng 70 kg, hiện nay tăng lên 140 kg. Thu nhập tăng gấp đôi khoảng 150 triệu đồng.
Tương tự, với diện tích 7 sào (2.520 m2) đất ven sông, ông Nguyễn Đức Minh, thôn Lan Đình, xã Thành Thịnh đầu tư trồng các giống dâu mới, các giống dâu lai để phục vụ lá cho việc nuôi tằm. Ông Minh chia sẻ, gắn bó với nghề trồng dâu nuôi tằm được 10 năm. Trước đây, ông trồng ngô, lúa nhưng không đem lại hiệu quả kinh tế. Từ khi trồng dâu, nuôi tằm giúp ông có thu nhập cao hơn gấp nhiều lần, kinh tế gia đình phát triển ổn định. Nhờ có nguồn dâu tươi, trung bình mỗi năm hai vợ chồng ông có thu nhập gần 100 triệu đồng.
Theo người dân nơi đây, nuôi tằm theo kiểu cũ, người dân phải trải qua đầy đủ các công đoạn từ lúc ấp tằm trứng cho tới lúc tằm lớn và thu kén trong thời gian 21 ngày. Với kiểu nuôi này, cứ cách 1-2 giờ đồng hồ lại làm vệ sinh thay tằm sang nong khác; cách 3 giờ đồng hồ sẽ cho tằm ăn một lượt. Riêng việc hái lá dâu đã mất gần 2-3 công lao động trong nhiều giờ mới đủ cho tằm ăn. Tất bật, hối hả là vậy nên khoảng thời gian đầu, nghề trồng dâu nuôi tằm chưa có triển vọng.
Bà Hoàng Thị Ánh Tuyết - Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ, Hỗ trợ phát triển nông nghiệp huyện Trấn Yên cho biết, năm 2021, Trung tâm bắt đầu thực hiện dự án khoa học về ứng dụng biện pháp kỹ thuật tổng hợp về trồng dâu nuôi tằm trên địa bàn huyện. Trong chăm sóc cây dâu, trung tâm hướng dẫn bà con sử dụng sản phẩm IMO phân hữu cơ vi sinh để bón cho cây, giúp lá dâu to, dày và giảm sâu bệnh, cải tạo đất tơi xốp.
Cùng đó, trung tâm ứng dụng kỹ thuật trong nuôi tằm con như sử dụng giống kỹ thuật mới, áp dụng nuôi tằm con 2 giai đoạn và áp dụng nuôi tằm lớn trên khay trượt. Mô hình này tiết kiệm được 30% diện tích làm nhà tằm, giảm công chăm sóc, nuôi tằm, điều chỉnh được tiểu khí hậu trong nhà nuôi tằm như: hạn chế tình trạng nồm ẩm vụ Xuân, tưới được nước lên nền khi thời tiết nóng. Nhờ vậy, người dân ngày càng gắn bó với nghề trồng dâu nuôi tằm.
Từ khi áp dụng khoa học kỹ thuật vào mô hình nuôi tằm 2 giai đoạn gồm nuôi tằm con tập trung và nuôi tằm lớn cho hiệu quả kinh tế cao. Chị Nguyễn Thị Hồng Lê, xã Thành Thịnh, huyện Trấn Yên cho biết, trước đây, khi chưa có nhà nuôi tằm con, việc nuôi tằm cả hai giai đoạn (nuôi tằm từ trứng cho đến thu kén) khiến nhiều hộ nuôi tằm thất thu. Bởi vì, nuôi tằm con rất khó nếu không chuyên môn sâu, không đúng kỹ thuật tằm dễ bị bệnh thì sẽ hỏng hết cả lứa tằm.
Nhờ có kỹ thuật và bí quyết nuôi tằm từ tuổi 1 đến tuổi 3, chị Lê đã chuyên cung ứng cho các hộ nuôi tằm lớn từ tuổi 4 để các hộ sẽ nuôi thêm vài tuần là tằm chín, lên né. Đặc biệt, việc sử dụng thuốc sát trùng, máy sưởi, điều hòa để điều chỉnh nhiệt độ, độ ẩm đã giúp tỷ lệ tằm sống cao. Mỗi năm gia đình chị xuất bán 400 vòng tằm, cung cấp cho bà con nhân dân trong và ngoài tỉnh. Từ nuôi tằm con đem lại thu nhập gần 1 tỷ đồng cho gia đình.
Trấn Yên là địa phương có diện tích dâu lớn nhất tỉnh Yên Bái với hơn 1.750 hộ nuôi tằm, giá trị sản phẩm bình quân đạt 300 triệu đồng/ha. Toàn huyện hiện có 25 cơ sở nuôi tằm con tập trung và 1.600 hộ nuôi tằm lớn; có 15 hợp tác xã, trên 100 tổ hợp tác với hơn 1.100 thành viên. Ngoài ra, trên địa bàn xây dựng 12 hợp tác xã làm dịch vụ thu mua, cung ứng cho Công ty cổ phần Dâu tằm tơ Yên Bái theo phương thức chuỗi liên kết để chế biến sản phẩm kén tằm, ươm tơ.
Theo Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Trấn Yên Triệu Thị Bích Liệu, năm 2025, huyện tiếp tục duy trì, phát triển vùng nguyên liệu chuyên canh các sản phẩm chủ lực, đặc sản gắn với các chuỗi giá trị; trong đó, huyện phấn đấu trồng mới 100 ha dâu, trồng cải tạo 50 ha dâu, nâng tổng diện tích dâu toàn huyện lên trên 1.150 ha, sản lượng kén tằm đạt 1.900 tấn.
Để thực hiện mục tiêu này, phòng tham mưu với Ủy ban Nhân dân huyện điều chỉnh quy hoạch đất trồng dâu nuôi tằm, tạo ra các vùng trồng dâu tập trung, chuyên canh quy mô lớn. Lựa chọn các giống dâu có năng suất, sản lượng cao đưa vào trồng; lựa chọn giống tằm thích hợp, nâng cao chất lượng nuôi tằm, nhất là nuôi tằm con tập trung nhằm tạo ra hiệu quả cao.
Đến nay, nhiều giải pháp hỗ trợ các đơn vị, doanh nghiệp được thực thi nhằm phát huy hiệu quả của chuỗi liên kết giá trị trong trồng dâu, nuôi tằm, chế biến kén tằm, ươm tơ như: liên kết giữa hợp tác xã trong trồng dâu, nuôi tằm; cung ứng giống tằm tốt; thu mua kén tằm; chia sẻ kinh nghiệm cho những hộ mới tham gia trồng dâu, nuôi tằm theo chuỗi giá trị.
Đơn cử như Công ty cổ phần Dâu tằm tơ Yên Bái thu mua kén với giá ổn định, cử cán bộ trực tiếp hướng dẫn, hỗ trợ kỹ thuật cho các hợp tác xã, hộ trồng dâu để nâng cao sản lượng và chất lượng kén đáp ứng yêu cầu của nhà máy; chi trả tiền bán kén tằm kịp thời và đầy đủ cho người dân.../.
(TTXVN/Vietnam+)