Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi sinh sống của gần 18 triệu người, là trung tâm sản xuất nông nghiệp của cả nước và là một trong những khu vực nông thôn có mật độ dân số đông nhất thế giới.
Tuy nhiên, từ năm 2018, hạn hán và xâm nhập mặn liên tiếp, cùng với lũ lụt và nắng nóng cực đoan ngày càng thường xuyên, đã làm giảm thu nhập từ nông nghiệp trên toàn vùng.
Thực trạng này đã khiến gần 1,7 triệu người dân di cư trong thập kỷ qua để tìm kiếm sinh kế ổn định hơn, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới với tựa đề "Ở lại hay di cư: Cuộc sống vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam”.
Tuy nhiên, chỉ riêng việc di cư thường không đủ để giúp những người này chống đỡ các cú sốc kinh tế.
Dữ liệu từ báo cáo cho thấy, dù khoảng 14% hộ gia đình tại ĐBSCL có thành viên đi làm ăn xa, nhưng chỉ 58% trong số đó nhận được tiền gửi về. Đáng chú ý, gần một nửa số khoản tiền này có giá trị dưới 5 triệu đồng mỗi năm – mức không đủ để giúp các hộ gia đình thoát nghèo theo chuẩn quốc gia.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho thấy, chỉ riêng việc di cư thường không đủ để giúp những người này chống đỡ các cú sốc kinh tế. Ảnh: Hoàng Anh
Không chỉ vậy, vị thế kinh tế của vùng ĐBSCL cũng đang suy giảm, khi tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước đã giảm từ gần 20% trước năm 2000 xuống còn 12,4% vào năm 2024.
Năm 2023, khu vực này chỉ thu hút được 3% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam.
Trong tương lai, vùng ĐBSCL có thể sẽ trải qua nhiều biến động lớn hơn.
Biến đổi khí hậu và quản lý nguồn nước thượng nguồn - phần lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của các nhà hoạch định chính sách trong nước - sẽ làm gia tăng các cú sốc về môi trường, từ xâm nhập mặn và hạn hán đến lũ lụt và nắng nóng cực đoan.
“Những áp lực đó đã và đang khiến nhiều người dân phải di cư khỏi vùng để tìm kiếm sinh kế an toàn, ổn định hơn và xu hướng này dự kiến sẽ còn phổ biến hơn trong những năm tới”, nhóm nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh trong báo cáo.
5 trụ cột chiến lược cho tương lai ĐBSCL
Những mối đe dọa ngày càng lớn về khí hậu và môi trường có thể khiến vị thế trung tâm sản xuất nông nghiệp của vùng ĐBSCL bị lung lay.
Bên cạnh đó, theo Ngân hàng Thế giới, kết quả mô phỏng cho thấy ngay cả trong kịch bản tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, các cú sốc khí hậu - đặc biệt là hạn hán và xâm nhập mặn - có thể khiến tỷ lệ nghèo tăng mạnh vào năm 2050, nhất là với các hộ gia đình phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và có thu nhập thấp.
Để chuẩn bị cho cộng đồng nơi đây trước một tương lai nhiều biến động, Ngân hàng Thế giới trong báo cáo cho rằng, chính sách phát triển cần chú trọng vào yếu tố con người cũng như yếu tố địa lý.
Điều này đồng nghĩa với việc đầu tư vào giáo dục, kỹ năng và khả năng dịch chuyển lao động, giúp người dân thích ứng và phát triển thịnh vượng dù họ chọn ở lại hay tìm kiếm cơ hội ở nơi khác.
Một trong các trụ cột được khuyến nghị là đầu tư vào giáo dục và phát triển kỹ năng để mở rộng cơ hội bởi giáo dục là nền tảng để thích ứng và dịch chuyển lao động ở ĐBSCL.
Thực tế cho thấy, vùng vẫn thiếu đầu tư, chi tiêu bình quân trên mỗi học sinh trong vùng ĐBSCL thấp hơn đáng kể so với mức trung bình cả nước, cùng với những khoảng cách dai dẳng nhiều năm qua trong tiếp cận, chất lượng và cơ sở hạ tầng.
Khi vai trò của sản xuất nông nghiệp giảm dần và xu hướng di cư tăng lên, giáo dục cần trang bị cho thanh thiếu niên và người trưởng thành phát triển các kỹ năng cần thiết để thích ứng, dù là đa dạng hóa sinh kế tại địa phương hay thành công ở khu vực khác.
Trụ cột thứ hai là chuyển đổi ngành nông nghiệp thành ngành có khả năng chống chịu và giá trị cao hơn.
Quá trình chuyển đổi này đòi hỏi việc thực hành nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, đa dạng hóa cây trồng, áp dụng hệ thống tưới tiêu hiện đại và tăng cường ứng dụng công nghệ số, Ngân hàng Thế giới nhấn mạnh.
Quy định sử dụng đất canh tác linh hoạt và tích tụ ruộng đất sẽ giúp hình thành hệ thống sản xuất nông nghiệp sinh lợi hơn. Quan hệ đối tác công – tư và canh tác theo hợp đồng có thể kết nối nông hộ với thị trường tốt hơn và duy trì thu nhập ổn định.
Mục tiêu không chỉ là duy trì nông nghiệp, mà còn là “chuẩn bị cho tương lai” để ngành sản xuất này tiếp tục hỗ trợ sinh kế cho những người ở lại và mang đến cơ hội cho người có mong muốn di cư trở lại làm việc trong vùng ĐBSCL.
Trụ cột thứ ba là đầu tư vào kết nối và năng lực cạnh tranh.
Theo đó, để phát triển ngoài lĩnh vực nông nghiệp, ĐBSCL cần xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết để thu hút doanh nghiệp, tăng cường kết nối và giảm chi phí giao dịch cho người nông dân.
Đi cùng với đó là thay đổi cả về ưu tiên lẫn quy mô trong việc tăng cường cơ sở hạ tầng vùng ĐBSCL.
Nguồn lực công phải được sử dụng một cách chiến lược, kết hợp với khai thác đầu tư tư nhân và tập trung vào thiết kế hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu, có tính đến xâm nhập mặn, ngập lụt và sụt lún.
Trụ cột thứ tư là thúc đẩy di cư an toàn và tự nguyện như một chiến lược thích ứng.
Di dời đến khu vực an toàn gần nơi ở ban đầu giúp người dân duy trì nguồn thu nhập nhưng các cú sốc nghiêm trọng ngày càng đòi hỏi phải di dời đến những khu vực tái định cư xa hơn, kèm theo với yêu cầu hỗ trợ có mục tiêu, đào tạo nghề, dịch vụ hội nhập.
Các địa phương như TP.HCM cần sẵn sàng tiếp nhận người di cư bằng cách đầu tư phát triển nhà ở giá rẻ, cơ sở hạ tầng và dịch vụ công, tránh sự xuất hiện của các khu dân cư tự phát và giảm mức độ dễ bị tổn thương ở các khu vực đô thị.
Trụ cột cuối cùng là xây dựng hệ thống an sinh xã hội thích ứng trong bối cảnh có nhiều rủi ro.
Để giảm mức độ dễ bị tổn thương, hệ thống an sinh xã hội phải phát triển thành một hệ thống bao trùm, phản ứng nhanh, giảm thiểu tình trạng nghèo kinh niên và nghèo do các cú sốc.
Khi xác định mục tiêu hiệu quả hơn, nguồn tài chính có thể mở rộng và hạ tầng số, hệ thống an sinh xã hội có thể trở thành công cụ đắc lực hỗ trợ thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế dài hạn ở vùng ĐBSCL.
Kiều Mai