Việc thảo luận công khai và nhân văn về tự tử có thể góp phần cứu sống nhiều người, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ tự tử ở thanh thiếu niên và người trẻ đang gia tăng đáng báo động.
Tuy nhiên, các chuyên gia tâm lý khẳng định nếu được tiếp cận một cách có trách nhiệm, việc thảo luận công khai và nhân văn về tự tử có thể góp phần cứu sống nhiều người, đặc biệt trong bối cảnh tỷ lệ tự tử ở thanh thiếu niên và người trẻ đang gia tăng đáng báo động.
Ngày 10/10, Ngày Sức khỏe tâm thần thế giới mang thông điệp “Chăm sóc sức khỏe tâm thần cho tất cả mọi người”, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức về sức khỏe tâm thần.
Ba hiểu lầm phổ biến nhất về tự tử
Một trong những quan niệm sai lầm phổ biến là cho rằng phụ nữ tự tử nhiều hơn nam giới. Nguyên nhân xuất phát từ việc phụ nữ thường được cho là dễ gặp các vấn đề tâm lý như trầm cảm, lo âu và có xu hướng thể hiện cảm xúc nhiều hơn.
Tuy nhiên, theo thông tin từ Tổ chức Y tế thế giới (WHO) lại cho thấy điều ngược lại khi tỷ lệ tử vong do tự tử ở nam giới cao gấp hai đến bốn lần so với nữ giới.
Nam giới tử vong do tự tử với tỷ lệ cao gấp đôi so với nữ giới trên toàn cầu 12,3 trên 100.000 so với 5,6 vào năm 2021. Tự tử là nguyên nhân gây tử vong phổ biến thứ 3 ở thanh thiếu niên trong độ tuổi 15-29.
Giáo sư Jo Robinson, Hiệp hội Quốc tế Phòng chống tự tử - IASP, nhấn mạnh: “Tự tử vẫn là một nguyên nhân tử vong đầy đau lòng nhưng hoàn toàn có thể ngăn ngừa. Các quốc gia cần coi phòng chống tự tử là ưu tiên sức khỏe cộng đồng, đầu tư cho chiến lược quốc gia, giải quyết các yếu tố xã hội và lắng nghe những người từng có trải nghiệm thực tế trong mọi giai đoạn thiết kế, triển khai”.
Thạc sĩ Vũ Bích Phượng, giảng viên ngành Tâm lý học, Khoa Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ (Đại học RMIT Việt Nam) lý giải: “Đây là một nghịch lý giới tính. Nam giới có xu hướng chọn các phương thức tự tử quyết liệt hơn và thường ít tìm kiếm sự giúp đỡ, dẫn đến tỷ lệ tử vong cao hơn. Nếu các nỗ lực phòng chống tự tử không được điều chỉnh phù hợp cho từng giới, hiệu quả sẽ rất hạn chế”.
Thạc sĩ Vũ Bích Phượng, giảng viên ngành Tâm lý học, Khoa Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam (Ảnh: RMIT)
Hiểu lầm thứ hai là niềm tin rằng người có triệu chứng tâm lý càng nghiêm trọng thì càng dễ tìm kiếm sự giúp đỡ. Trên thực tế, nghiên cứu tại Việt Nam và quốc tế đều cho thấy xu hướng ngược lại: những người có ý định tự tử và rối loạn tâm lý nặng thường né tránh hoặc từ chối các hỗ trợ từ người thân hoặc chuyên gia.
“Điều này xảy ra vì khả năng ra quyết định của họ bị cản trở nghiêm trọng bởi tình trạng tâm lý. Cảm giác tuyệt vọng gia tăng và khả năng nhận thức bị bóp méo khiến họ càng tin rằng việc tìm kiếm giúp đỡ là vô ích,” Thạc sĩ Vũ Bích Phượng chia sẻ.
Thảo luận về tự tử không phải là điều dễ dàng nhưng là việc cần làm một cách tỉnh táo, có hiểu biết và cảm thông. (Ảnh minh họa)
Hiểu lầm thứ ba cũng là rào cản lớn nhất là quan điểm cho rằng nói về tự tử sẽ làm gia tăng nguy cơ xảy ra hành vi này. Trong nhiều nền văn hóa, đây là lý do khiến chủ đề tự tử thường bị né tránh hoàn toàn. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, niềm tin này không có cơ sở khoa học.
“Nghiên cứu cho thấy việc nói về tự tử một cách có trách nhiệm và không phán xét không làm tăng nguy cơ mà ngược lại, có thể giúp những người đang gặp khó khăn cảm thấy được lắng nghe và có thêm hy vọng,” Thạc sĩ Vũ Bích Phượng khẳng định.
Truyền thông về tự tử một cách có trách nhiệm
Trong thời đại số, truyền thông đóng vai trò then chốt trong cách cộng đồng tiếp cận và hiểu về các vấn đề sức khỏe tâm thần. Tuy nhiên, không ít nội dung truyền thông hiện nay vẫn vô tình (hoặc cố ý) gây hại.
“Có những bài báo và nội dung trên mạng xã hội mô tả chi tiết phương thức tự tử, đăng tải hình ảnh hiện trường, tiết lộ thông tin cá nhân và trích thư tuyệt mệnh. Cách đưa tin như vậy khiến lý do dẫn đến hành động tự tử bị đơn giản hóa quá mức và có thể dẫn đến hiệu ứng bắt chước”, Thạc sĩ Bùi Trà My, giảng viên Truyền thông, Đại học RMIT Việt Nam nhận định.
Ngoài ra, phản ứng của công chúng trên mạng xã hội cũng có thể khiến vấn đề trầm trọng hơn. Nhiều bình luận cho rằng người tự tử là “ích kỷ”, “thiếu suy nghĩ” hoặc “yếu đuối”. Cách phản ứng này không chỉ gây tổn thương sâu sắc cho gia đình người đã mất mà còn làm gia tăng sự kỳ thị đối với những người đang gặp khủng hoảng tâm lý.
Có những bài báo và nội dung trên mạng xã hội mô tả chi tiết phương thức tự tử, đăng tải hình ảnh hiện trường, tiết lộ thông tin cá nhân và trích thư tuyệt mệnh. Cách đưa tin như vậy khiến lý do dẫn đến hành động tự tử bị đơn giản hóa quá mức và có thể dẫn đến hiệu ứng bắt chước.
Thạc sĩ Bùi Trà My
Giảng viên Truyền thông, Đại học RMIT Việt Nam nhận định
Một điểm yếu nghiêm trọng trong nhiều bản tin là thiếu thông tin về các dịch vụ hỗ trợ sức khỏe tâm thần.
Thạc sĩ Bùi Trà My chia sẻ: “Truyền thông nên chia sẻ các câu chuyện về hy vọng và khả năng phục hồi, đặc biệt là những người đã vượt qua khủng hoảng và tìm lại ý nghĩa cuộc sống. Điều này có thể tạo cảm hứng và củng cố niềm tin cho những người đang ở trong tình trạng tương tự”.
Việc cung cấp thông tin rõ ràng, đáng tin cậy về các dịch vụ tư vấn, đường dây nóng hoặc trung tâm hỗ trợ sức khỏe tâm thần cần được xem là phần không thể thiếu trong bất kỳ nội dung nào liên quan đến tự tử.
Thạc sĩ Bùi Trà My, giáo viên môn Truyền thông, Đại học RMIT Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần bảo vệ danh tính và quyền riêng tư của người đã mất và gia đình họ, tránh giật tít câu view, không đăng tải hình ảnh nhạy cảm và không tường thuật quá chi tiết phương thức tự tử.
Chúng ta không thể ngăn chặn mọi vụ tự tử chỉ bằng việc đưa tin đúng cách nhưng thông qua truyền thông có trách nhiệm, cộng đồng có thể góp phần giảm thiểu rủi ro, giảm kỳ thị và giúp những người đang ở bờ vực không cảm thấy đơn độc.
Khi truyền thông và cộng đồng thay đổi cách tiếp cận, phá vỡ sự kỳ thị và tạo ra không gian an toàn để lắng nghe, mỗi cuộc trò chuyện có thể trở thành một cơ hội cứu sống.
Nguyễn Trung Hiếu