Chính sách cần đi trước một bước
Sau nhiều năm phát triển với nhịp độ chậm, hệ thống đường bộ cao tốc Việt Nam đã ghi nhận bước chuyển mạnh mẽ trong giai đoạn 2021 - 2025. Dự kiến đến hết năm nay, cả nước sẽ hoàn thành và thông xe kỹ thuật khoảng 3.513 km cao tốc, trong đó tuyến Bắc - Nam phía Đông cơ bản hoàn tất với toàn bộ 23 dự án thành phần được đưa vào khai thác. Đến năm 2030, cả nước đặt mục tiêu sẽ có 5.000 km đường cao tốc.
Chia sẻ tại tọa đàm “Sức bật từ 3.000 km cao tốc” do Báo Xây dựng tổ chức hôm nay (17/12), PGS.TS Trần Chủng - Chủ tịch Hiệp hội các Nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam - cho rằng, mục tiêu hoàn thành 5.000 km cao tốc vào năm 2030 chỉ có thể đạt được nếu chính sách thực sự đóng vai trò “mở đường” cho nguồn lực.
PGS.TS Trần Chủng - Chủ tịch Hiệp hội các Nhà đầu tư công trình giao thông đường bộ Việt Nam. Ảnh: Lộc Liên.
Theo PGS.TS Trần Chủng, 3 yếu tố then chốt cần được đặt ra trong giai đoạn tới gồm: Hoàn thiện cơ chế, chính sách sát thực tiễn; sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; và sự đồng hành của Nhà nước với doanh nghiệp trong ứng dụng khoa học công nghệ.
Thực tiễn các dự án thời gian qua cho thấy, nơi nào địa phương vào cuộc quyết liệt, đặc biệt trong giải phóng mặt bằng, tiến độ được cải thiện rõ rệt. Trong bối cảnh các địa phương thực hiện sáp nhập từ 1/7, câu chuyện phân cấp, phân quyền càng cần được thiết kế hợp lý để tạo thuận lợi cho triển khai các dự án quy mô lớn, liên vùng.
Ở góc độ doanh nghiệp tư vấn, ông Phạm Hữu Sơn - Chủ tịch Tổng công ty Tư vấn thiết kế giao thông vận tải (TEDI) - cho rằng, giai đoạn bứt tốc vừa qua cho thấy năng lực và tinh thần trách nhiệm rất lớn của đội ngũ tư vấn, nhưng cũng bộc lộ những khoảng trống về chính sách hỗ trợ.
Áp lực tiến độ khiến nhiều doanh nghiệp phải tổ chức làm việc tăng ca, tăng kíp trong thời gian dài. Tuy nhiên, theo ông Sơn, điều đáng lo ngại hơn là việc tiếp cận và thử nghiệm công nghệ mới hiện vẫn chủ yếu dựa vào nỗ lực tự thân của doanh nghiệp, trong khi thiếu các cơ chế hỗ trợ bài bản từ Nhà nước.
Cao tốc Cam Lâm - Vĩnh Hảo. Ảnh: BXD.
Bên cạnh đó, đơn giá tư vấn trong lĩnh vực giao thông đang ở mức thấp so với nhiều ngành khác, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả lương, giữ chân nhân lực chất lượng cao. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến nguồn nhân lực kỹ thuật cho ngành giao thông ngày càng khan hiếm.
Nhà thầu và những “nút thắt”
Từ thực tiễn thi công, ông Nguyễn Bá Đoàn - Chủ nhiệm chính trị Binh đoàn 12, Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn - nhận định, 2 vấn đề lớn nhất hiện nay vẫn là vật liệu và con người.
Theo ông Đoàn, Việt Nam không thiếu tài nguyên, nhưng thủ tục khai thác còn nhiều vướng mắc, khiến nhiều dự án bị động về tiến độ. Thực tế cho thấy, dự án nào giải quyết được nguồn vật liệu sớm thì tiến độ được bảo đảm, thậm chí có thể rút ngắn thời gian thi công. Cao tốc Cần Thơ - Cà Mau là ví dụ, khi phần việc của nhà thầu được hoàn thành trước kế hoạch nhờ tháo gỡ kịp thời vấn đề vật liệu.
Về nhân lực, ông Đoàn cho rằng việc tuyển dụng kỹ sư ngày càng khó, trong khi giữ chân người lao động đòi hỏi các cơ chế đãi ngộ đủ hấp dẫn. Ngoài tiền công, các chính sách khuyến khích, thưởng tiến độ được xem là yếu tố quan trọng để tạo động lực cho doanh nghiệp trong giai đoạn tiếp theo.
Việc tuyển dụng kỹ sư đường bộ ngày càng khó. Ảnh: BXD.
Theo các chuyên gia và doanh nghiệp, những con số ấn tượng về chiều dài cao tốc cho thấy nỗ lực lớn của cả hệ thống trong giai đoạn vừa qua. Tuy nhiên, hành trình hướng tới 5.000 km cao tốc vào năm 2030 đòi hỏi cách tiếp cận thận trọng và dài hạn hơn, trong đó chính sách cần đi trước, nguồn lực cần được chuẩn bị đầy đủ và doanh nghiệp cần được đồng hành thực chất.
Khi cao tốc không chỉ là những tuyến đường mới, mà là trụ cột của phát triển kinh tế - xã hội, bài toán đặt ra không chỉ là làm thêm bao nhiêu km, mà là làm thế nào để hệ thống ấy vận hành hiệu quả, bền vững và tạo ra giá trị lâu dài cho nền kinh tế.
Lộc Liên