Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ - lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh có hơn 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Người đi đến gần 30 nước, đi khắp các châu lục, làm nhiều nghề khác nhau. Từ khi Bác chào đời đến lúc đi hoạt động cách mạng trong điều kiện, hoàn cảnh bí mật, Người phải thay đổi họ tên rất nhiều lần. Từ tên gọi đầu tiên là Nguyễn Sinh Cung rồi tên gọi Văn Ba xuất dương đi tìm đường cứu nước, đến khi trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác dùng rất nhiều tên gọi, bí danh, bút danh làm cho mọi người thấy rõ cuộc đời hoạt động cách mạng đầy khó khăn, gian khổ nhưng sôi nổi, phong phú, sinh động của Người - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.
Đến nay, qua nhiều tài liệu được lưu giữ và nghiên cứu, tổng hợp, có 174 tên gọi, bí danh, bút danh được Bác sử dụng, nhưng số lượng này chắc chưa dừng lại vì còn những khoảng trống trong quá trình hoạt động của Người, hiện nay vẫn đang được các cơ quan nghiên cứu, sưu tầm tài liệu xác minh.
Mỗi tên gọi được Bác dùng đều gắn liền với những sự kiện lịch sử, những bước ngoặt quan trọng trong hành trình của Người, với những chặng đường của cách mạng Việt Nam, mỗi tên gọi đó đều mang những ý nghĩa sâu sắc. Khi hoạt động ở nước Pháp, rồi sang Liên Xô hoạt động, học tập hay về Trung Quốc, đến khi về nước… Bác đều có những tên gọi, bí danh, bút danh vừa mang ý nghĩa, vừa mang nặng tình cảm với đất nước, với con người ở đó, vừa phù hợp với thời gian, không gian nên thuận lợi cho hoạt động của Người trên mỗi chặng đường.
Trong những tên gọi, bút danh, bí danh có nhiều tên gọi, bút danh, bí danh được Bác Hồ sử dụng khi Người về hoạt động ở Cao Bằng. Đầu tiên là Cúng Sáu Sán, là Thu Sơn, Già Thu, lúc viết bài phụ nữ đăng trên Báo Việt Nam Độc lập, Người lấy tên là Kim Oanh. Khi Bác viết bài thơ “Trẻ con” đăng trên Báo Việt Nam Độc lập, Người lấy bút danh là Bé Con… Hiện vẫn còn đang tìm hiểu thêm, nhưng qua các tài liệu đã có thì thời kỳ Bác hoạt động ở Cao Bằng, đến nay tổng hợp được hơn 10 tên gọi, bí danh, bút danh. Tên gọi nào, bút danh nào của Bác cũng có ý nghĩa và làm cho mọi người có ấn tượng tốt đẹp…
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại lán Khuổi Nặm, xã Trường Hà (Hà Quảng). Tranh tư liệu
Tại Cao Bằng, một trong những tên gọi gây ấn tượng sâu sắc nhất, lâu dài nhất đó là tên gọi “Bác” bắt đầu từ thời gian diễn ra Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5/1941) tại lán Khuổi Nặm, xã Trường Hà (Hà Quảng). Tại hội nghị, các đại biểu được biết có đại biểu của quốc tế là đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự và chỉ đạo hội nghị. Lúc đầu, mới gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mọi người không biết xưng hô thế nào.
Trong cuốn “Đường Bác Hồ chúng ta đi”, đồng chí Hoàng Quốc Việt kể lại: Tới Cao Bằng, các đồng chí trong Tỉnh ủy ra đón chúng tôi. Tay bắt mặt mừng, tình đời, tình người nồng nàn, đằm thắm. Bà con khắp bản trên, xóm dưới nghe tin anh Lý (bí danh của đồng chí Hoàng Văn Thụ) đã về, xối xả chạy lại vây quanh anh… Anh giới thiệu anh Trường Chinh, tôi và các đồng chí khác với bà con dân bản. Qua anh, bà con bắt đầu có thiện cảm với chúng tôi. Một đồng chí trong Tỉnh ủy nói: “Ông Ké đã biết tin, đang đợi các đồng chí”. Một đồng chí liên lạc đưa chúng tôi lần theo đường rừng, lên xuống những đám ruộng bậc thang, men theo bờ suối vòng vèo, bước qua bãi sỏi sột soạt, “nhảy cóc” trên những phiến đá nhấp nhô. Một con đường đất đỏ, lượn quanh khuất nẻo, con đường dẫn tới hang Cốc Bó, nơi Bác Hồ đang ở. Một ông già mặc áo chàm, vai vắt khăn, cao cao, gầy gầy, vầng trán cao, đôi mắt sáng, chòm râu thưa, đang đi lại phía chúng tôi. Anh Lý nói nhỏ với mọi người: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đấy!” Trong số anh em chúng tôi từ miền xuôi lên, chỉ có anh Lý là biết Bác, vì trước đó mấy tháng anh sang Trung Quốc gặp Bác. Giây phút ban đầu gặp Bác sao mà hồi hộp vậy. Tôi liếc mắt mình sang anh Trường Chinh thấy nét mặt anh rạng rỡ. Bác bắt tay chúng tôi. Giây phút đầu tiên gặp Bác, tôi hơi lúng túng cách xưng hô. Tự nhiên bật lên câu: “Chào đồng chí ạ!” Bác cười. Sau này, ở núi rừng Việt Bắc, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đôi lần gặp nhau, Bác còn nhắc lại chuyện cũ. “Chú Việt lúc ấy chào mình bằng câu: “Chào đồng chí ạ!”. Đây là một kỷ niệm đẹp, không bao giờ quên.
Anh Lý giới thiệu với Bác từng đồng chí trong đoàn. Khi biết rõ họ tên tôi là Hạ Bá Cang, Bác nhớ hồi đầu năm 1931, khi ấy Bác nhận được bản báo cáo từ trong nước gửi sang, nói về vụ xử án Kiến An, trong đó có tôi. Nhìn tôi trong giây lát, Bác cười nói: Hồi ấy được báo cáo gửi sang bản đánh máy lại không có dấu cho nên tôi đọc là Hà Bá Cang. Bác cố nhấn mạnh chữ “Hà Bá” mà lướt nhẹ chữ “Cang” làm cho mọi người đứng đấy cười ầm lên, phá tan cái không khí trang nghiêm, do dự lúc ban đầu. Sau câu “pha trò” của Bác làm chúng tôi rất vui, phấn chấn tinh thần, xoắn xít bên Bác. Bác thật giản dị và rất tâm lý. Tới cửa hang, chúng tôi ngồi quây quần chung quanh Bác trên một phiến đá to, phẳng. Trong giao tiếp ban đầu, chúng tôi người gọi Bác là “Cụ”, người xưng hô là đồng chí. Sau thấy anh Trường Chinh và anh Hoàng Văn Thụ dùng từ “Bác”, chúng tôi dùng theo. Trong chúng tôi, người cao tuổi nhất là anh Phùng Chí Kiên cũng kém Bác 11 tuổi. Tiếng “Bác” sao mà thân thương, đằm thắm, hợp với lòng mình thế đã đi vào lòng nhân dân ta và nhân dân thế giới, đi vào tình cảm của mỗi người đối với Bác, đi vào “lịch sử của tâm hồn”. Bác bảo chúng tôi nghỉ cho lại sức rồi sau đó bàn việc nước, việc Đảng. Chúng tôi ở chung trong một chiếc lán thuộc khu vực Khuổi Nặm.
Vùng núi Lam Sơn, xã Hồng Việt (Hòa An). Ảnh Thế Vĩnh
Thời gian ở vùng núi đá thuộc căn cứ Lam Sơn, Bác chuẩn bị đi công tác nước ngoài, để đánh lạc hướng của bọn mật thám, Bác lấy một tên mới là Hồ Chí Minh. Đồng chí Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) kể lại: Tháng 8/1942, Bác có việc phải đi ra nước ngoài. Tôi được giao nhiệm vụ chuẩn bị giúp Bác. Gọi là chuẩn bị nhưng công việc chẳng có gì. Trong túi của Bác chỉ có một bộ quần áo tây và một bộ áo chàm của người Nùng. Tôi lấy đá mềm khắc hai con dấu: một con dấu của Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội và một con dấu của Quốc tế phản xâm lược, Việt Nam Phân hội, Bác tự tay viết hai giấy giới thiệu của hai nhóm đoàn thể trên, cử Hồ Chí Minh đi gặp Chính phủ Trung Quốc. Mục đích của Bác là qua gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cái tên Hồ Chí Minh ra công khai từ đó. Và cũng từ đó tên của Người ngày càng làm rạng rỡ Đảng ta, nhân dân ta, đất nước ta. Lúc bấy giờ Bác có một danh thiếp đề tên Hồ Chí Minh.
Khi Bác bảo: Chú Trịnh (Vũ Anh) khéo tay lấy đá khắc hai con dấu đóng lên giấy tờ, đồng chí Vũ Anh phân vân với một tên gọi mới lạ chưa được nghe bao giờ, hỏi lại Bác: Dạ cháu sẽ cố gắng nhưng giấy này cấp cho Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh là ai? Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh chứ còn ai nữa… Thế ra Bác là…
Khi Bác sắp lên đường, cơ quan cũng chuyển ra Lam Sơn. Sau khi phân công, giao việc cho các đồng chí ở lại, Bác từ Lam Sơn ra đi, đồng chí Lê Quảng Ba được đi cùng với Bác. Các đồng chí Phạm Văn Đồng, Vũ Anh, Đặng Văn Cáp, Hoàng Đức Thạc ra tiễn Bác tận bờ sông Dẻ Rào, sang đến làng Cốc Lại, khi Bác cùng đoàn khuất bóng mới quay về.
Sau những ngày đi bộ trên đất Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chí Minh đến phố Túc Vinh, huyện Đức Bảo thì bị tuần cảnh giữ lại. Khi kiểm tra giấy tờ, chúng phát hiện ngoài giấy giới thiệu của Quốc tế phản xâm lược, Việt Nam Phân hội, Hồ Chí Minh còn mang theo thẻ hội viên “Hội ký giả thanh niên Trung Quốc”, thẻ thông tín viên đặc biệt của “Quốc tế tân văn xã” các giấy tờ do Bộ Tư lệnh Đệ tứ Chiến khu cấp từ năm 1940 đều đã quá hạn sử dụng. Chúng nghi Người là gián điệp, bèn bắt giữ và giải lên Tịnh Tây rồi giải đi, giải lại suốt 13 huyện và các nhà tù của tỉnh Quảng Tây… Sau khi ra tù, lần đầu tiên trên báo Đồng Minh số 18, tháng 12/1943, phát hành ở Liễu Châu (Quảng Tây), người đọc thấy xuất hiện tên gọi Hồ Chí Minh ký dưới bài viết: Li Băng.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi đất nước giành được độc lập, Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Từ đó đến nay và mãi đến muôn đời sau, tên Người - Hồ Chí Minh sẽ còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam và trong trái tim nhân loại.
Đinh Ngọc Viện