Tiếng nói của Người vang vọng khắp non sông, khẳng định quyền tự do, độc lập thiêng liêng của dân tộc Việt Nam và tuyên bố trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Ảnh tư liệu
Sự kiện ấy không chỉ mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam kỷ nguyên độc lập, tự do, đi lên CNXH mà còn để lại bản tuyên ngôn bất hủ, kết tinh trí tuệ, khí phách và khát vọng của cả một dân tộc.
Đối với thế hệ hôm nay, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là dấu son lịch sử mà còn là kim chỉ nam định hướng hành động, hun đúc ý chí và bản lĩnh của người Sĩ quan Lục quân trong thời kỳ mới.
Trước khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ đã trải qua hàng chục năm bôn ba khắp năm châu, tìm đường cứu nước. Người tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nghiên cứu sâu sắc các bản tuyên ngôn nổi tiếng như Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp.
Điều đặc biệt ở Bác là Người không sao chép, mà chọn lọc, vận dụng sáng tạo những giá trị tiến bộ ấy, đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam vừa mang tính phổ quát của nhân loại, vừa chứa đựng bản sắc, khí phách Việt Nam.
Bác Hồ khẳng định quyền tự do, bình đẳng là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, đồng thời nêu rõ quyền đó phải gắn liền với quyền độc lập của dân tộc. Đây là bước phát triển sáng tạo, gắn quyền cá nhân với quyền cộng đồng, quyền dân tộc.
Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những bằng chứng xác đáng về tội ác của thực dân Pháp và Nhật, từ đó khẳng định cuộc Cách mạng Tháng Tám là sự lựa chọn tất yếu, chính đáng, phù hợp xu thế thời đại.
Bác Hồ thay mặt toàn dân tộc tuyên bố quyết đem tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững độc lập. Đó không chỉ là lời khẳng định mà còn là lời thề thiêng liêng.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã truyền cảm hứng cho phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới. Nhiều học giả quốc tế đánh giá đây là “một trong những văn kiện chính trị vĩ đại của thế kỷ XX”, bởi nó kết hợp nhuần nhuyễn tư tưởng nhân quyền với tư tưởng giải phóng dân tộc.
Ra đời trong khói lửa kháng chiến chống thực dân Pháp, Trường Sĩ quan Lục quân 1 mang sứ mệnh đào tạo đội ngũ sĩ quan chỉ huy tham mưu Lục quân cho toàn quân. Trải qua hơn 75 năm xây dựng và trưởng thành, Nhà trường luôn gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng của Đảng, quân đội và nhân dân.
Ngày nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, nhiệm vụ đào tạo của Nhà trường càng nặng nề và đòi hỏi chất lượng cao hơn: đào tạo người sĩ quan vừa “hồng” vừa “chuyên”, có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ quân sự hiện đại. Tuyên ngôn Độc lập giúp bồi đắp bản lĩnh chính trị, lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân. Tuyên ngôn hun đúc ý chí quyết tâm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Tuyên ngôn khơi dậy niềm tự hào dân tộc, giúp học viên ý thức sâu sắc rằng mình là người kế tục xứng đáng sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Trong giáo dục chính trị, tư tưởng: Giảng viên lồng ghép nội dung Tuyên ngôn Độc lập vào các môn học lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quốc phòng an ninh, giúp học viên nhận thức rõ mối liên hệ giữa truyền thống lịch sử và nhiệm vụ hiện tại. Trong huấn luyện quân sự: Tinh thần “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng…” trở thành phương châm rèn luyện ý chí, sức chịu đựng, khả năng tác chiến của học viên. Trong xây dựng môi trường văn hóa quân sự: Tuyên ngôn Độc lập là “ngọn lửa” hun đúc tinh thần đoàn kết, kỷ luật, trách nhiệm trong tập thể cán bộ, giảng viên, học viên.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và chiến tranh công nghệ cao, sĩ quan Lục quân phải vừa giỏi chuyên môn quân sự, vừa thành thạo công nghệ thông tin, ngoại ngữ, đồng thời giữ vững lập trường chính trị. Tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập giúp mỗi sĩ quan xác định rõ mục tiêu chiến đấu vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời thích ứng với yêu cầu mới.
Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với vị thế mới: nền kinh tế tăng trưởng liên tục, hội nhập quốc tế sâu rộng, uy tín quốc tế ngày càng cao. Song, tình hình khu vực và thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn, các thách thức an ninh phi truyền thống và chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn phức tạp.
Người sĩ quan Lục quân hôm nay không chỉ bảo vệ Tổ quốc trên chiến trường truyền thống, mà còn trên “mặt trận số”, mặt trận thông tin, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập chính là “lá chắn tinh thần” giúp sĩ quan Lục quân kiên định lập trường, làm chủ vũ khí, công nghệ và tình huống. Cán bộ, giảng viên, học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 hôm nay sống trong thời bình nhưng mang khí phách thời chiến kiên cường, mưu trí, sáng tạo. Mỗi bài giảng, mỗi giờ huấn luyện, mỗi nhiệm vụ được giao đều là cơ hội để họ rèn luyện, phấn đấu, xứng đáng với lời thề Tuyên ngôn Độc lập và với truyền thống anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là bản hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam, kết tinh trí tuệ và bản lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cả dân tộc. Giá trị của Tuyên ngôn không chỉ dừng lại ở thời khắc lịch sử 80 năm, mà còn soi sáng con đường phát triển của đất nước hôm nay và mai sau.
Đối với Trường Sĩ quan Lục quân 1, Tuyên ngôn Độc lập là kim chỉ nam tinh thần trong sự nghiệp đào tạo đội ngũ sĩ quan Lục quân “vừa hồng, vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình. Mỗi cán bộ, giảng viên, học viên Nhà trường cần biến tinh thần Tuyên ngôn thành hành động cụ thể: học tập, rèn luyện không ngừng; trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Tự hào về Bác Hồ, tự hào về Tuyên ngôn Độc lập, thế hệ sĩ quan Lục quân hôm nay và mai sau sẽ tiếp tục viết tiếp bản anh hùng ca của dân tộc Việt Nam bản anh hùng ca bắt đầu từ mùa thu năm 1945 lịch sử./.
Thượng tá, ThS Nguyễn Hữu Quý