Tham dự hội nghị có lãnh đạo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường); đại diện một số sở, ngành tỉnh và một số doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh.
Đồng chí Phạm Văn Thịnh chủ trì hội nghị.
Những năm qua, hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh (cũ) đã ban hành nhiều đề án, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, trong đó tập trung xây dựng vùng sản xuất tập trung, hỗ trợ cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất an toàn (VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ), cấp mã số vùng trồng, mã cơ sở đóng gói, liên kết theo chuỗi giá trị, chế biến, xuất khẩu.
Hiện tỉnh Bắc Ninh có diện tích đất sản xuất nông nghiệp khoảng 184 nghìn ha, gồm 117.300 ha đất cây hằng năm, 66.700 ha đất cây lâu năm. Trong đó tổng diện tích cây ăn quả đạt khoảng 53.900 ha; diện tích sản xuất thành vùng tập trung là 33.400 ha, chiếm 62% diện tích. Toàn tỉnh đã thực hiện cấp 400 mã số vùng trồng, 43 mã cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu.
Đại diện Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật nêu ý kiến tại hội nghị.
Từ nay đến cuối năm 2025, tỉnh tập trung sản xuất các sản phẩm chủ lực như: Nhãn, na, cam, bưởi, ổi, táo... Tiếp tục chỉ đạo các giải pháp kỹ thuật để có năng suất, chất lượng cao nhất và các điều kiện bảo đảm xuất khẩu, nhất là tại các vùng trồng đã được cấp mã số. Cùng đó quan tâm chỉ đạo mở rộng diện tích cây trồng theo tiêu chuẩn an toàn (VietGAP, GlobaGAP, hữu cơ) tạo chuỗi liên kết gắn với truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Đồng thời thúc đẩy phát triển các loại cây ăn quả có giá trị cao như: Nho hạ đen, nho mẫu đơn… Quan tâm phát triển nông nghiệp đa giá trị nhằm tạo ra giá trị tăng tối ưu trên một đơn vị diện tích canh tác. Tiếp tục làm tốt công tác dự báo tình hình sâu bệnh hại, tình hình thời tiết, cảnh báo thiên tai và nhu cầu thị trường.
Đại diện doanh nghiệp phát biểu ý kiến tại hội nghị.
Năm 2026, toàn tỉnh phấn đấu diện tích sản xuất vải thiều đạt 29.800 ha; sản lượng 160.000 tấn, trong đó diện tích vải sớm 8.200 ha, sản lượng 60.000 tấn; sản xuất vải an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP là 17.500 ha, sản lượng ước đạt 125.000 tấn; vải sản xuất theo tiêu chuẩn GlobalGAP duy trì diện tích 235 ha; vải sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ diện tích 10 ha. Chỉ đạo sản xuất tốt với các vùng đã được thực hiện số hóa 181 vùng trồng, diện tích 4.655 ha.
Tại hội nghị, các đại biểu chia sẻ khó khăn trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thu nông sản. Một số cây ăn quả thế mạnh như: Táo, ổi, cam, bưởi đã được quy hoạch, chỉ đạo trồng thành vùng tập trung song diện tích sản xuất còn hạn chế, cơ bản là trồng xen kẹp nhiều đối tượng cây ăn quả. Chi phí cấp giấy chứng nhận đối với sản xuất đạt tiêu chuẩn an toàn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ còn cao, yêu cầu kỹ thuật và đầu tư chăm sóc cao. Chưa có doanh nghiệp lớn đầu tư vào sản xuất trồng trọt, kinh doanh, chế biến, nhất là chế biến sâu sản phẩm trồng trọt trên địa bàn tỉnh.
Đồng thời đề nghị UBND tỉnh Bắc Ninh quan tâm hơn nữa công tác tập huấn nhằm nâng cao nhận thức cho người sản xuất. Sở Khoa học và Công nghệ tăng cường liên kết với các cơ quan nghiên cứu tạo ra những giống cây trồng mới, kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh, có chất lượng tốt và thu hoạch rải vụ để tăng giá trị.
Đồng chí Phạm Văn Thịnh kết luận hội nghị.
Tỉnh Bắc Ninh kiến nghị Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tham mưu trình Bộ Nông nghiệp và Môi trường sớm xây dựng phần mềm quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Hỗ trợ hướng dẫn thực hiện quy trình chuẩn hóa đối với từng loại cây trồng để đáp ứng mục tiêu xuất khẩu; tiếp tục đàm phán mở rộng thị trường xuất khẩu các nước khu vực châu Âu, châu Mỹ, châu Á đối với các sản phẩm cây ăn quả có thế mạnh. Tăng cường đào tạo, tập huấn và hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, hợp tác xã trong công tác xây dựng chứng nhận quốc tế HACCP, các quy định về an toàn thực phẩm đối với trái cây xuất khẩu…
Phát biểu kết luận hội nghị, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Văn Thịnh đánh giá cao ý kiến của đại biểu tại buổi làm việc nhằm đánh giá tình hình và định hướng công tác tổ chức sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ gắn với truy xuất nguồn gốc; tiêu thụ nông sản chủ lực trong thời gian tới.
Để nông sản của tỉnh đáp ứng các yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, mở rộng thị trường xuất khẩu, gia tăng giá trị, đồng chí giao Sở Khoa học và Công nghệ sớm nghiên cứu nâng cấp hai hệ thống truy xuất nguồn gốc của hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh (cũ) thành một hệ thống hoàn chỉnh, truy cập được vào hệ thống truy xuất quốc gia. Sau khi hoàn thành đăng tải đường dẫn công khai trên Cổng Thông tin điện tử tỉnh để doanh nghiệp, thương nhân, người dân dễ dàng truy cập, kết nối.
Sở Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật mở các lớp tập huấn, hướng dẫn người trồng canh tác theo xu thế an toàn sinh học; cập nhật xu thế chăm sóc cây trồng hiệu quả, bền vững. Chủ trì phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Công Thương rà soát lại các nông sản chủ lực của tỉnh để xây dựng kế hoạch cụ thể từ sản xuất đến tiêu thụ, đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc và xuất khẩu. Sở Công Thương rà soát, tham mưu với Chủ tịch UBND tỉnh từ 2-3 vị trí xây dựng khu, cụm công nghiệp dành cho chế biến nông, lâm sản; báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh trước ngày 15/9.
Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ, các sở, ngành liên quan nghiên cứu, tham mưu tỉnh xây dựng Trung tâm chiếu xạ nông sản phấn đấu đưa vào hoạt động trong năm 2026 trên tinh thần hợp tác công - tư (doanh nghiệp là chủ đầu tư, nhà nước hỗ trợ); ban hành chính sách hỗ trợ kinh phí, máy móc cho doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư vào chế biến nông sản. Giao Sở Khoa học và Công nghệ chỉ đạo, lựa chọn 1-2 hợp tác xã và doanh nghiệp để triển khai thí điểm quản lý quy trình từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ bằng công nghệ blockchain.
Tin, ảnh: Hoài Thu