Nhiều nông sản "xuất ngoại"
Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu VIFOCO (phường Tiền Phong) là đơn vị chế biến, đóng gói và xuất khẩu nông sản lớn tại Bắc Ninh, trong đó có vải thiều. Ông Nguyễn Xuân Đức, Phó Giám đốc Công ty cho biết, khoảng cách từ vùng vải sớm Phúc Hòa đến nhà máy chỉ từ 15-17 km. Quả tươi từ vùng trồng sau thu hoạch nhanh chóng được đưa đến khu vực chế biến, bảo quản. Nhờ làm tốt công tác liên kết sản xuất và chế biến ngay tại địa phương nên chi phí trung gian do vận chuyển và thời gian chờ đợi được giảm đáng kể. Năm 2024, VIFOCO lần đầu tiên bao tiêu sản lượng vải sớm Phúc Hòa với giá ổn định từ 30-35 nghìn đồng/kg; sản lượng cam kết tăng theo lộ trình. Năm 2025, doanh nghiệp cũng thành công khi lần đầu tiên đưa 20 tấn vải thiều chính vụ Lục Ngạn "xuất ngoại" bằng đường biển sang Hoa Kỳ. Đến nay, vải Bắc Ninh qua VIFOCO đã có mặt tại châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Đông và được các hệ thống phân phối nước ngoài đón nhận tích cực. Năm nay, sản lượng vải thiều toàn tỉnh đạt hơn 205 nghìn tấn - cao nhất từ trước đến nay. Trong đó, sản lượng tiêu thụ nội địa đạt 62%, xuất khẩu đạt kỷ lục 78,2 nghìn tấn, mang lại tổng doanh thu từ vải thiều và dịch vụ phụ trợ đạt trên 6.200 tỷ đồng.
Người lao động Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Lục Sơn vận chuyển nhãn tươi chuẩn bị xuất khẩu sang thị trường Úc.
Cùng với vải thiều, năm nay lần đầu tiên quả nhãn của Hợp tác xã Dịch vụ Nông nghiệp Lục Sơn được doanh nghiệp liên kết đưa xuất khẩu thành công sang Úc. Doanh nghiệp thu mua nhãn của bà con tại vườn với giá ổn định 25 nghìn đồng/kg, sau đó sơ chế, đóng gói trước khi xuất khẩu. Mức giá trên cao hơn nhiều so với bán quả thô trên thị trường truyền thống. Ngoài các doanh nghiệp trên, một số đơn vị như Ameii Việt Nam, Toàn Cầu, Rồng Đỏ, G.O.C… đã đồng hành cùng nông dân trong khâu thu mua, đóng gói, chiếu xạ và xuất khẩu, giúp nông sản tiêu thụ thuận lợi, giá trị gia tăng gấp nhiều lần so với tiêu thụ nội địa. Sự kiện xuất khẩu thành công với sản phẩm nhãn tươi sang Úc và đưa vải thiều vươn xa đến nhiều quốc gia khó tính bằng đường biển, đường hàng không tiếp tục mở ra cơ hội khơi thông thị trường cho nhiều nông sản khác. Hiện các cơ quan chức năng của tỉnh đang tích cực làm việc với Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) xây dựng hồ sơ quản lý vùng trồng đối với các sản phẩm như: Na, ổi, táo, thanh long, chuối xanh và nhiều cây trồng khác... đồng thời thực hiện đàm phán với các đối tác nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản của tỉnh.
Rộng cửa đón nhà đầu tư
Là địa phương có vùng trồng cây ăn quả, rau màu lớn của miền Bắc, những năm qua, tỉnh triển khai nhiều chính sách hỗ trợ các địa phương phát triển nông nghiệp hàng hóa. Nhờ vậy, trên địa bàn đã hình thành hàng trăm vùng sản xuất nông sản tập trung quy mô lớn; năng suất, chất lượng ngày càng tăng. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường, toàn tỉnh có hơn 184 nghìn ha đất nông nghiệp; khoảng 53.900 ha cây ăn quả, tổng giá trị đạt trên 7.400 tỷ đồng/năm. Diện tích trồng rau màu đạt gần 31.000 ha, sản lượng khoảng 626.000 tấn/năm, tổng giá trị ước đạt 3.600 tỷ đồng/năm. Toàn tỉnh duy trì 404 mã số vùng trồng, gồm 94 mã phục vụ thị trường nội địa, 310 mã xuất khẩu cùng 43 mã cơ sở đóng gói quả tươi. Với nhiều chính sách ưu đãi, một số doanh nghiệp chế biến nông sản đã và đang phát huy vai trò cầu nối đưa trái ngọt của tỉnh vươn xa trên thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, EU, Trung Đông… Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực song theo phân tích của các cơ quan chức năng và doanh nghiệp, giá trị sản xuất nông sản của tỉnh chưa tương xứng với tiềm năng.
Để thúc đẩy liên kết sản xuất nông nghiệp gắn với chế biến, Bắc Ninh đang rộng cửa đón nhà đầu tư vào xây dựng nhà máy sản xuất nước hoa quả, sấy khô, đông lạnh… nông sản với quan điểm: Tỉnh ưu tiên hỗ trợ chính sách thuế, thuê đất, bảo đảm nguồn nguyên liệu cung ứng; doanh nghiệp đầu tư thiết bị, công nghệ.
Để nâng cao giá trị nông sản, đáp ứng tiêu chí đặt ra của các nước nhập khẩu, bên cạnh khâu sản xuất an toàn, minh bạch về nguồn gốc, xây dựng vùng nguyên liệu ổn định thì công nghệ chế biến được xác định vai trò then chốt. Hiện nay, tỉnh chưa có nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư vào sản xuất, chế biến sâu nông sản. Thực tế ngành Nông nghiệp cả nước đã từng chứng kiến nông dân nhiều vùng trồng dưa hấu, thanh long, sầu riêng... điêu đứng khi phải bán rẻ sản phẩm, một trong những nguyên nhân là do khâu chế biến chưa phát triển.
Đánh giá của ngành Nông nghiệp tỉnh, nhiều nông sản thế mạnh như na, thanh long, ổi, chuối xanh… của tỉnh đã xây dựng vùng trồng an toàn song do chưa được chế biến sâu dẫn đến giá bán có thời điểm bấp bênh khiến người trồng thua lỗ.
Theo kế hoạch, năm 2026, Bắc Ninh nâng tỷ lệ xuất khẩu vải thiều lên 45% tổng sản lượng (tăng 8% so với 2025). Trong đó, Trung Quốc chiếm khoảng 40%, các thị trường cao cấp như EU, Hoa Kỳ, Úc, Nhật Bản… chiếm 5%. Tỉnh cũng định hướng mở rộng thị trường tiêu thụ đối với sản phẩm rau chế biến. Do đó, sự tham gia của doanh nghiệp chế biến giúp kéo dài thời gian bảo quản, tiêu thụ cũng như đa dạng hóa sản phẩm chế biến từ sản phẩm gốc thông qua kỹ thuật chiết, ép lấy nước; sấy khô nguyên vị... Qua đó giảm áp lực và sự phụ thuộc vào hình thức tiêu thụ theo mùa vụ.
Theo đồng chí Nguyễn Văn Phương, Phó Giám đốc Sở Công Thương, đơn vị đang phối hợp với cơ quan chức năng tích cực hướng dẫn các nhà đầu tư xây dựng hạ tầng chế biến nông sản tại trung tâm logistics, khu, cụm công nghiệp; đặc biệt khuyến khích xây dựng nhà xưởng chế biến ngay tại vùng trồng cây ăn quả, rau màu chủ lực, địa bàn xã miền núi.
Trước đây, vải thiều Bắc Ninh và nông sản khác trước khi xuất khẩu phải qua các đơn vị chiếu xạ trung gian tại thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh theo yêu cầu của quốc gia nhập khẩu nên phát sinh nhiều chi phí vận chuyển cũng như thời gian chờ đợi. Nỗ lực khắc phục khó khăn này, tỉnh có chủ trương đưa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gần nhau hơn thông qua chương trình liên kết, hợp tác sản xuất và chế biến, chiếu xạ, làm thủ tục xuất khẩu ngay tại tỉnh. Đại diện Công ty cổ phần Công nghệ thế hệ mới Hanel PT, Khu công nghiệp Tiên Sơn cho biết, đơn vị sản xuất, cung ứng máy SASAKI có chức năng sấy nông sản nguyên chất với công suất lớn. Nếu hợp tác với các doanh nghiệp chế biến nông sản sẽ mở ra cơ hội lớn mang lại lợi ích hài hòa cho các bên. Đây là hướng đi mới được lãnh đạo tỉnh ủng hộ. Về lâu dài mỗi địa phương, vùng trồng cần quy hoạch đất xây dựng cơ sở cung ứng dịch vụ chế biến do tư nhân đầu tư, quản lý. Qua đó giảm áp lực tiêu thụ “nóng” cho nông sản tươi, kéo dài thời gian phân phối sản phẩm trên thị trường và nâng cao giá trị nông sản.
Bài, ảnh: Mai Toan - Hoài Thu