Những năm gần đây, việc sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh Tiền Giang từng bước đi vào chiều sâu. Nông dân đã chuyển hướng sang các giống lúa chất lượng cao, chú trọng liên kết sản xuất để tạo đầu ra ổn định.
Đây cũng là đòi hỏi từ thực tiễn, nhất là nhu cầu gạo ở thị trường các nước mà Việt Nam tham gia xuất khẩu đã thay đổi thói quen tiêu dùng.
ĐI VÀO CHIỀU SÂU
Lúa - gạo vẫn là nhóm ngành hàng mang tính chủ lực của Tiền Giang khi diện tích gieo trồng, sản lượng thu hoạch hằng năm còn tương đối lớn. Do vậy, việc chuyển đổi mô hình sản xuất, hướng vào chất lượng, hiệu quả là yếu tố quan trọng.
Sản xuất lúa - gạo đã chuyển dịch dần từ số lượng sang chất lượng.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường (NN-MT) tỉnh Tiền Giang, toàn tỉnh hiện có tổng diện tích sản xuất nông nghiệp hơn 189.000 ha; trong đó, lúa - gạo là ngành sản xuất chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Theo đó, toàn tỉnh hiện có hơn 54.000 ha đất trồng lúa, diện tích gieo trồng hằng năm khoảng 130.000 ha, sản lượng thu hoạch gần 800.000 tấn. Những năm gần đây, do nhu cầu tiêu dùng thay đổi theo hướng chú trọng vào chất lượng hơn số lượng, nên sản xuất lúa - gạo trên địa bàn Tiền Giang cũng chuyển dịch theo hướng tích cực, bắt đầu hình thành vùng sản xuất tập trung, với sản lượng lớn.
Thực tiễn cho thấy, trên địa bàn tỉnh Tiền Giang đã hình thành 2 vùng sản xuất lúa tập trung. Trong đó có vùng sản xuất lúa chất lượng cao ở các huyện phía Tây với diện tích 18.800 ha, tập trung chủ yếu ở các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước và TX. Cai Lậy. Vùng sản xuất lúa thơm, đặc sản ở các huyện phía Đông với diện tích 18.000 ha, tập trung chủ yếu ở các huyện Gò Công Tây, Gò Công Đông và TP. Gò Công.
Nhìn từ thực tiễn mới thấy, trong những năm gần đây, diện tích gieo trồng lúa trên địa bàn tỉnh có xu hướng giảm do chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển đổi diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả, thiếu nước tưới sang cây trồng khác thích nghi và cho hiệu quả cao hơn.
Theo đó, giai đoạn 2019 - 2023, toàn tỉnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa với diện tích 14.982 ha. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa có giảm, nhưng nhờ nông dân chủ động điều tiết cơ cấu giống sản xuất lúa thích nghi cao cho từng vùng sinh thái. Đồng thời, nông dân cũng chuyển dịch mạnh sang các giống lúa chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu thị trường xuất khẩu như: OM 18, OM 380, OM 5451...
Từ đó cho thấy, diện tích sản xuất giống lúa phẩm chất trung bình hiện giảm nhiều so với 5 năm trước đây. Năm 2019, diện tích gieo sạ nhóm giống lúa thường chiếm gần 32%, đến năm 2023, tỷ lệ này chỉ còn hơn 7%.
Cùng với việc tập trung sản xuất các giống lúa chất lượng cao, nông dân còn tích cực áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất. Hiện nay, các tiến bộ khoa học - kỹ thuật được nông dân tiếp tục áp dụng và đạt hiệu quả cao như: “3 giảm 3 tăng”; “1 phải 5 giảm”. Nông dân còn gieo sạ tập trung; sạ thưa, sạ lúa bằng nông cụ sạ hàng; tỷ lệ sử dụng giống lúa cấp nguyên chủng và xác nhận đạt 95,8%. Việc quản lý thu gom rơm rạ sau thu hoạch ngày càng được nông dân chú trọng áp dụng.
Đặc biệt, nông dân đã tập trung áp dụng cơ giới hóa trong khâu làm đất, bơm tát; thu hoạch lúa bằng máy. Nông cụ sạ hàng, máy phun giống và máy cấy lúa đã được ứng dụng ngày càng nhiều. Máy phun thuốc bảo vệ thực vật có động cơ, máy bay không người lái đã phục vụ cơ giới hóa trong phun thuốc trên 98% diện tích, góp phần tăng thu nhập cho người sản xuất.
Những chuyển động trong sản xuất lúa đã giúp thay đổi thói quen canh tác, mang lại hiệu quả tốt hơn cho nông dân. Gia đình ông Nguyễn Văn Hải (ấp Tân Hưng Đông, xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước) có 5,5 ha đất trồng lúa.
Những năm gần đầy, ông đã tập trung gieo sạ các giống lúa được thị trường ưa chuộng. “Làm lúa bây giờ khỏe lắm, tất các khâu đều có máy móc làm thay sức người hết. Từ cày, phóng đến gieo sạ, rải phân, xịt thuốc đều bằng máy hết. Mấy năm nay, giá lúa cao nên dân có lợi nhuận khá, chỉ có vụ đông xuân vừa qua là lời ít do giá lúa giảm mạnh”- ông Hải cho biết.
Theo đánh giá của Sở NN-MT, trong điều kiện giá nhiên liệu, công lao động, thuốc bảo vệ thực vật, đặc biệt là phân bón tăng cao trong những năm gần đây nên dù giá thành sản xuất có tăng nhưng nông dân cũng tạm chấp nhận được, đời sống cũng ổn định.
Nguyên nhân là nhờ năng suất lúa trong 5 năm gần đây tăng nhẹ từ 1,2 - 2,2 tạ/ha so với năm 2019, kết hợp với tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật và cơ giới hóa. Bên cạnh đó, chất lượng lúa được nâng cao, giá lúa tăng nên lợi nhuận tăng từ 3,4 - 16,5 triệu đồng/ha giúp người dân ngày càng phấn khởi. Nhìn chung, sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào chiều sâu và chất lượng, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất ngày càng được chú trọng.
CHÚ TRỌNG LIÊN KẾT
Bên cạnh việc canh tác các giống lúa chất lượng cao, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, việc liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị luôn được tỉnh đặc biệt chú trọng. Theo đó, hiện trên địa bàn tỉnh có nhiều mô hình kinh tế tập thể hỗ trợ nông dân, thành viên hợp tác xã (HTX) thực hiện tốt liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa - gạo.
Cụ thể, trên địa bàn tỉnh có khoảng 40 HTX đẩy mạnh sản xuất và liên kết cung cấp dịch vụ đầu vào, hỗ trợ thành viên tiêu thụ lúa với các doanh nghiệp, thương nhân trong và ngoài tỉnh. Diện tích liên kết trực tiếp của các HTX với thành viên khoảng 12.500 ha. Ngoài ra, các HTX còn mời gọi doanh nghiệp liên kết tiêu thụ trực tiếp với thành viên và nông dân, đảm bảo tiêu thụ hết lúa trong vùng.
Thực tiễn cho thấy, một số mô hình liên kết tiêu thụ lúa hiệu quả như: HTX Nông nghiệp Mỹ Thành Nam (xã Mỹ Thành Nam, huyện Cai Lậy) liên kết với Công ty ADC sản xuất 100 ha theo tiêu chí GlobalGAP, doanh nghiệp bao tiêu với giá cao hơn thị trường thời điểm từ 500 - 1.000 đồng/kg; mô hình liên kết giữa HTX Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Quới với Công ty TNHH MTV Phước Lộc Thiên Hộ tại xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè, quy mô liên kết 400 - 600 ha/vụ, với giống lúa OM 18, OM 5451, sản phẩm gạo được chứng nhận OCOP 4 sao; mô hình liên kết giữa HTX Dịch vụ nông nghiệp Bình Nhì, HTX Nông nghiệp Lợi An liên kết với Công TNHH TM HK Green quy mô liên kết 1.500 - 2.000 ha/vụ, Công ty cổ phần Vinh Hiển Farm để sản xuất và xây dựng thương hiệu gạo VD20 Gò Công, quy mô 2.000 - 3.000 ha/vụ.
HTX Nông nghiệp dịch vụ nông thôn Bình Nhì (xã Bình Nhì, huyện Gò Công Tây) hiện có gần 2.400 thành viên, với tổng diện tích sản xuất lúa khoảng 800 ha. Thời gian qua, HTX đã xây dựng mã số vùng trồng lúa nội địa với diện tích hơn 255 ha/515 hộ. Bên cạnh đó, HTX còn tích cực phối hợp cùng các ngành, các cấp triển khai thực hiện mô hình Cánh đồng lớn trên địa bàn xã.
Để triển khai mô hình Cánh đồng lớn hiệu quả, HTX đã phối hợp với ngành chức năng tổ chức các lớp tập huấn cho thành viên và trang bị kỹ thuật canh tác lúa theo chương trình “1 phải, 5 giảm”, “3 giảm, 3 tăng”... ngay từ đầu vụ. Đặc biệt, HTX còn ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với doanh nghiệp giúp thành viên an tâm hơn trong sản xuất.
Ông Huỳnh Văn Lượng, Giám đốc HTX Nông nghiệp dịch vụ nông thôn Bình Nhì cho biết, hiện HTX đang liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa với các doanh nghiệp trên diện tích hơn 60 ha. Khi tham gia liên kết, đối với những diện tích lúa giống, thành viên sẽ bán lúa giá cao hơn thị trường 500 đồng/kg. Riêng những hộ không sản xuất lúa giống thì bán giá cao hơn thị trường 200 đồng/kg.
HTX Dịch vụ sản xuất nông nghiệp Mỹ Quới (xã Hậu Mỹ Bắc B, huyện Cái Bè) hiện có hơn 800 thành viên. Để giúp thành viên an tâm sản xuất và gắn bó, HTX đã chủ động tìm kiếm, ký hợp đồng liên kết tiêu thụ lúa với các công ty như: Công ty VFC, Công ty TNHH Phước Lộc Thiên Hộ trong cung ứng vật tư đầu vào, bao tiêu sản phẩm đầu ra cho nông dân trong mô hình Cánh đồng lớn với diện tích sản xuất lúa khoảng 525 ha. Mặc dù có biến động về giá cả thị trường và dịch bệnh xảy ra, nhưng HTX vẫn đảm bảo việc tiêu thụ cho thành viên.
Ngoài ra, HTX xây dựng mô hình lúa an toàn theo hướng hữu cơ, tham gia dự án lúa ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, góp phần nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu lúa - gạo. Hiện 2 sản phẩm gạo ST 24, Nàng Hoa 9 của công ty liên kết với HTX sản xuất đã được thẩm định công nhận sản phẩm OCOP đạt 4 sao.
Chuyển đổi mô hình, hướng đến hình thành vùng sản xuất tập trung với quy mô lớn, chú trọng vào chất lượng là tiền đề rất quan trọng để góp phần tăng trưởng cho xuất khẩu gạo. Xu hướng này đã và đang được định hình trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
M. THÀNH - A. PHƯƠNG
(còn tiếp)