Nhiều khu vực miền Trung – Tây Nguyên vừa qua chìm trong lũ lụt lịch sử. Trong khi đó, quy trình vận hành hồ chứa được xây dựng dựa trên dữ liệu thủy văn quá khứ, dường như “lạc nhịp” trước tình huống mưa cực đoan vượt chuẩn, thậm chí vượt mức lũ thiết kế 500–1.000 năm.
Xảy ra “lũ kép”, trong khi các mô hình thiết kế chỉ tính “lũ đơn”
Sau hơn hai thập kỷ phát triển, Việt Nam có gần 600 nhà máy thủy điện, đóng góp gần 1/3 tổng sản lượng điện mỗi năm. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh thủy điện nhỏ ở miền Trung – Tây Nguyên, nơi có địa hình dốc, sông ngắn và lưu vực nhỏ, đang đặt ra nhiều rủi ro mới.
Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ.
Vùng Tây Nguyên hiện có hàng trăm thủy điện lớn nhỏ đang hoạt động, công suất đạt 8.600MW. Riêng tỉnh Lâm Đồng hiện có 58 nhà máy thủy điện lớn nhỏ, tổng công suất 2.325,31MW. Hầu hết các hồ thủy điện tại Lâm Đồng được xây dựng trên hệ thống sông Đồng Nai, theo dạng bậc thang. Trung bình cứ vài chục cây số trên dòng sông này có một nhà máy thủy điện. Hiện tại, tất cả các thủy điện của Lâm Đồng vẫn đang xả lũ.
Đặc điểm bậc thang các hồ trên cùng lưu vực khiến lũ về hạ du dễ rơi vào tình trạng “lũ chồng lũ”, hồ trên xả thì hồ dưới bắt buộc phải xả theo. Dung tích phòng lũ nhỏ làm cho nhiều hồ chỉ có khả năng xả bằng lưu lượng về, gần như không cắt lũ đáng kể.
Các chuyên gia cho rằng, chỉ một sai số nhỏ trong dự báo cũng khiến hồ “mất cửa điều tiết”. Khi mực nước vượt ngưỡng an toàn, xả lũ là bắt buộc, dẫn đến nguy cơ hồ trở thành “bom nước” treo lơ lửng trên đầu hạ du.
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam cũng cho rằng, đợt mưa lũ vừa rồi là hiện tượng cực đoan hiếm gặp, vài chục năm mới xảy ra. Mưa lớn kéo dài 2–3 ngày khiến hồ chứa và vùng trũng đều đầy nước, rừng không còn khả năng thấm, nên nước mưa dồn hết xuống sông gây lũ lớn. Đặc biệt, mưa hết đợt này đến đợt khác tạo ra “lũ kép”, trong khi các mô hình thiết kế hiện nay chỉ tính “lũ đơn”. Vì vậy, nhiều hồ đập được thiết kế cho lũ 500 năm nay phải đối mặt với mức lũ lên tới 1.000 năm, vượt xa tiêu chuẩn cũ do biến đổi khí hậu.
“Mưa lũ là yếu tố bất khả kháng, nhưng nếu hệ thống tiêu chuẩn và mô hình vẫn đứng yên trong khi khí hậu thay đổi, thì rủi ro chắc chắn sẽ không dừng lại ở mức thiên tai, mà sẽ trở thành thất bại trong quản trị rủi ro”, ông Dũng nhận định.
TS Nguyễn Huy Hoạch, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, đợt mưa lũ sau bão vừa qua cho thấy rất rõ sự khác biệt về khả năng phòng lũ giữa các hệ thống hồ chứa bậc thang. Một số hồ thủy điện có dung tích phòng lũ khá lớn thì khả năng cắt, giảm lũ đạt hiệu quả cao. Nhưng cũng có những hồ chứa thủy điện không có dung tích chống lũ, chủ yếu phục vụ phát điện là chính nên hiệu quả chống lũ rất hạn chế, thậm chí phải xả nước xuống hạ lưu bằng đúng lưu lượng nước về hồ để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình. Như thủy điện A Vương và Đăk Mi 4 có thể cắt 10–20% đỉnh lũ nhưng chỉ trong vài giờ đầu, trước khi buộc phải xả để đảm bảo an toàn.
Hay, với lưu vực sông Ba có gần 30 hồ chứa lớn, nhỏ. Tuy nhiên, chỉ 5 hồ được giao nhiệm vụ giảm lũ cho hạ du theo Quyết định 878/QĐ-TTg ngày 18/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ, bao gồm hồ An Khê - Ka Nak, hồ Sông Hinh, hồ Krông Hnăng, hồ Ayun Hạ và hồ Sông Ba Hạ (ở hạ lưu, giữ vai trò quan trọng nhất). Dung tích phòng lũ của các hồ thủy điện trên lưu vực này rất hạn chế (khoảng 530 triệu m³), chức năng chính vẫn là phát điện. Khi lũ, bão số 14 về nhanh, lượng nước đổ về hồ Sông Ba Hạ đã vượt quá khả năng giữ lại, buộc nhà máy phải xả xuống hạ lưu gần bằng lưu lượng nước về. Do thủy điện Sông Ba Hạ không phải hồ chuyên chống lũ, thời điểm cao nhất, lưu lượng xả lên tới 16.100m³/s, khiến các khu vực Phú Hòa, Đông Hòa, Sơn Hòa ngập sâu, giao thông nhiều nơi bị chia cắt.
TS Hoạch cho rằng, nhiều hồ dù vận hành đúng quy trình nhưng thiết kế hồ nhỏ do điều kiện địa hình, dung tích hữu ích hạn chế nên gần như không còn khả năng cắt lũ trong bối cảnh mưa cực đoan. Ông nhấn mạnh các quy trình hiện nay dựa trên dữ liệu quá khứ, trong khi khí hậu và dòng chảy đã thay đổi hoàn toàn, khiến nhiều quy định trở nên lạc hậu và giảm hiệu quả phòng lũ.
Thủ tướng Chính phủ ban hành 11 Quy trình vận hành liên hồ chứa (QTVH LHC) trên các lưu vực sông (Hồng, Mã, Cả, Hương, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Sê San, Srêpốk, Kôn - Hà Thanh, Trà Khúc, Đồng Nai), với tổng số 134 hồ chứa, đập dâng trên 11 lưu vực sông (trên tổng số khoảng hơn 600 hồ chứa thủy điện và hơn 7.000 hồ chứa thủy lợi toàn quốc) được điều tiết, vận hành theo cơ chế liên hồ.
Mưa lũ vượt mốc lịch sử nhưng quy trình vận hành còn nhiều lỗ hổng
Theo GS.TS Nguyễn Quốc Dũng, thiên tai là khó tránh, nhưng thiệt hại lớn chủ yếu do quy trình vận hành còn bất cập và thiếu đội ngũ tư vấn chuyên môn. Hiện việc vận hành hồ thủy lợi, thủy điện rơi vào nghịch lý “ai cũng đúng”: Chủ hồ khẳng định làm đúng quy trình, cơ quan phòng, chống thiên tai nói ra lệnh đúng thẩm quyền, nhưng quy trình lại thiếu công cụ khoa học để hỗ trợ quyết định sớm trong bối cảnh rủi ro cao.
Ông cho rằng, bài toán điều tiết đặc biệt phức tạp khi lưu vực có nhiều hồ xếp tầng, trong khi các địa phương lại thiếu bộ phận tư vấn thủy văn – thủy lực chuyên nghiệp. Đài khí tượng chỉ dự báo mưa, nhưng không thể tính được lũ về lúc nào, lưu lượng bao nhiêu hay hồ nào cần xả trước nếu không có mô hình số và dữ liệu thời gian thực.
GS.TS Nguyễn Quốc Dũng cảnh báo, quy trình hiện tại còn nhiều lỗ hổng như thiếu bản đồ ngập hạ du, thiếu mô hình kịch bản và dữ liệu đầy đủ, khiến việc vận hành dễ bị động khi hồ đầy cuối mùa. Vì vậy, cần xây dựng hệ thống vận hành mới gồm cơ chế tư vấn cấp tỉnh, mô hình hóa lũ, AI, dữ liệu số và cơ chế mua dung tích phòng lũ để tăng an toàn.
Các chuyên gia khẳng định, quy trình vận hành liên hồ chứa hiện nay không còn phù hợp trước biến đổi khí hậu và cần được cập nhật, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Về công tác điều tiết lũ hiện nay, đặc biệt khi nói về xả lũ tại thủy điện Sông Ba Hạ, PGS.TS Vũ Thanh Ca, nguyên giảng viên cao cấp Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường cho rằng, các hồ chứa nhìn chung đang vận hành khá tốt, tuân thủ đúng các quy định trong quy trình vận hành hồ chứa và liên hồ chứa do cơ quan có thẩm quyền ban hành, ví dụ như quy trình liên hồ chứa do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thông thường, trước khi lũ về, các hồ đều chủ động hạ thấp mực nước để tăng dung tích cắt lũ, giảm áp lực cho hạ du. Với diễn biến lũ rất căng thẳng tại Nam Trung Bộ những ngày qua, câu hỏi đặt ra là: Thủy điện Sông Ba Hạ vận hành như thế nào và tác động ra sao đến mực nước hạ du?
Thực tế, thủy điện Sông Ba Hạ có quy mô điều tiết rất nhỏ. Mực nước chết của hồ là 101m, còn mực nước dâng trong điều kiện lũ khoảng 105,96m, tức là biên độ điều tiết chỉ khoảng 5m, tương ứng với dung tích gần 165 triệu m³. Với dung tích này, khi lũ về đạt đỉnh trong vòng khoảng ba giờ, cho dù hồ đã hạ xuống mực nước chết thì phần dung tích đó cũng nhanh chóng đầy lại. Vì vậy, việc hồ Ba Hạ có thể cắt lũ đáng kể là cực kỳ thách thức.
Về câu chuyện thủy điện và lũ hạ du, mỗi khi xảy ra ngập lụt, dư luận thường đặt câu hỏi: Thủy điện có làm tăng lũ hay không? Ở đây, chúng ta cần một cái nhìn thật khách quan. Khi lũ về, hồ thủy điện chỉ có hai trạng thái: Xả thấp hơn lưu lượng nước về hồ tích nước, nhờ vậy lũ hạ du giảm. Xả bằng đúng lưu lượng nước về hồ hoạt động như một đoạn sông bình thường, không làm tăng lũ, có hồ hay không cũng vậy.
Một số người cho rằng, chỉ cần “xả bằng về” vẫn làm lũ lớn hơn, đó là hiểu sai về nguyên lý thủy lực. Đúng là dòng nước xả qua đập có thế năng lớn, tạo dòng chảy mạnh, nhưng tất cả các hồ đều có bể tiêu năng để triệt tiêu phần lớn năng lượng đó. Phần năng lượng nhỏ còn lại sẽ nhanh chóng bị “phân rã rối” và tác động của các xoáy rối vào đáy và bờ sông khi chảy xuống hạ du làm tiêu tán. Do các quá trình này, sau một đoạn rất ngắn từ cửa xả của thủy điện, dòng nước trở lại trạng thái bình thường và vận tốc dòng chảy trong sông được quyết định bởi độ dốc mặt nước (trọng lực) và lực gây ra do quá trình phân rã rối và tác động của các xoáy rối vào đáy và bờ sông. Do vậy, dòng chảy lũ trong sông hoàn toàn không còn chịu tác động của hồ.
Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương Trần Hoài Trang cũng cho rằng, ngập lụt kéo dài ở miền núi và miền Trung vừa qua chủ yếu do địa hình dốc, mà lượng mưa lại quá lớn, tập trung và kéo dài. Mặt khác, hệ thống đường giao thông Bắc – Nam án ngữ phía bờ biển, theo đó là hệ thống cống thoát nước nhỏ, xuống cấp hoặc hành lang thoát lũ tự nhiên bị co hẹp do lấn chiếm để xây dựng các công trình khác khiến dòng chảy bị ứ lại. “Nhiều khu vực ngập hàng tuần không phải do hồ chứa điều tiết lũ mà do không có lối thoát nước; chỉ một dòng suối bị bồi lấp hoặc bị co hẹp cũng có thể khiến cả vùng “ôm” lũ dài ngày”, ông Trang nhấn mạnh.
Về nguyên tắc vận hành xả lũ theo pháp luật hiện hành được quy định rất rõ: Cấm xả qua công trình xả lũ với lưu lượng lớn hơn lưu lượng lũ tự nhiên về hồ. Ví dụ, nếu lưu lượng nước tự nhiên về hồ đạt 1.000m³/s, công trình chỉ được xả lưu lượng lớn nhất là 1.000m³/s. Khi hồ còn dung tích, lũ sẽ được giữ lại hồ chứa một phần và xả về hạ lưu một phần, khi đó lưu lượng xả sẽ nhỏ hơn lưu lượng lũ tự nhiên. Do đó, hồ chứa chỉ có thể giảm lũ hoặc làm chậm lũ, chứ không thể làm tăng lũ nếu vận hành đúng quy trình. Nhận thức này ngày càng rõ khi ngành Công Thương thường xuyên có các số liệu báo cáo vận hành và các địa phương, người dân cũng hiểu rõ về vai trò cắt, giảm lũ của các hồ chứa trên bậc thang.
Theo ông Trang, các hồ chứa trên các bậc thang thủy điện như Lai Châu – Sơn La – Hòa Bình trên sông Đà được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy trình vận hành liên hồ chứa và trong quá trình vận hành đã điều tiết cắt, giảm lũ về phía hạ du rất hiệu quả, giúp kéo dài thời gian lũ về hạ du từ vài ngày thành nhiều tuần, tạo điều kiện ứng phó cho hạ lưu. Nhiều năm qua, khi các bộ, ngành, các địa phương tổ chức tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ hơn cơ chế vận hành hồ chứa và phối hợp nhịp nhàng trong triển khai phương án phòng, chống thiên tai thì không còn quan điểm cho rằng, “thủy điện xả lũ gây lũ chồng lũ”. Với đặc điểm mưa lũ năm nay, có thể nói nguyên nhân chính là do mưa cực đoan vượt các mốc lịch sử chứ không phải do quá trình xả tràn. Nhiều người dân cao tuổi khẳng định chưa từng thấy trận lũ lớn tương tự, cho thấy mức độ bất thường của thiên tai, vượt xa những yếu tố con người có thể kiểm soát.
Theo các chuyên gia, đặc điểm sông ngòi Tây Bắc với chiều dài 400–500km tạo độ trễ tự nhiên giúp khu vực đồng bằng sông Hồng có thời gian ứng phó khi có lũ từ phía thượng nguồn. Ngược lại, miền Trung có địa hình dốc lớn, chiều dài sông ngắn nên lũ từ thượng nguồn “đổ về” rất nhanh. Dù có hồ chứa nhưng với dung tích nhỏ thì cũng không thể cắt được lũ khi gặp các con lũ có lưu lượng cực lớn. Ví dụ, lưu vực sông Ba Hạ có lưu lượng lũ tương đương sông Hồng, nhưng chiều dài ngắn và hệ thống thủy điện bậc thang với tổng dung tích các hồ chứa đạt khoảng 530 triệu m3, nên khả năng điều tiết rất hạn chế. “Với quy mô hồ chứa vài trăm triệu mét khối mà phải đối mặt với lưu lượng lũ hàng nghìn mét khối mỗi giây, rõ ràng không thể kỳ vọng hồ cắt lũ nhiều hơn nữa hay giữ nước lại lâu hơn được”, Phó Cục trưởng Trần Hoài Trang cho hay.
Nhà ông Nguyễn Văn Miền ở Bãi Điều, xã Sơn Hòa (Đắk Lắk) bị thiệt hại sau khi thủy điện Sông Ba Hạ xả lũ.
Ông Trần Hoài Trang cũng cho rằng, trong bài toán thoát lũ, thủy điện không thể “gánh” mọi kịch bản thiên tai. Theo ông Trang, khi bố trí bậc thang các dự án thủy điện cho một dòng sông hay hệ thống sông thì việc nghiên cứu, tính toán khả năng cắt lũ, điều tiết lũ hồ chứa đã được nghiên cứu, xem xét ngay từ khâu lập quy hoạch. Các thông số về dung tích hồ chứa, mực nước dâng, khả năng xả lũ đều được xác định dựa trên tần suất lũ thiết kế ứng với cấp thiết kế của công trình, chứ không phải hoàn toàn theo mọi kịch bản lũ cực đoan của tự nhiên. Do vậy, công trình thủy điện không thể chống đỡ mọi trận lũ vượt cả tần suất thiết kế, bởi giới hạn kỹ thuật và điều kiện kinh tế không cho phép xây dựng những hồ chứa khổng lồ có thể chứa được toàn bộ lượng nước của một trận lũ cực đoan. Việc này giống như thiết kế một tuyến đường giao thông, cầu qua sông, cũng chỉ chịu đựng được một mức ngập nhất định, vượt quá khả năng ấy thì trở thành thiên tai vượt thiết kế, không thể yêu cầu công trình có khả năng chống đỡ vô hạn.
Thực hiện Nghị định 146/2025/NĐ-CP của Chính phủ về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại, UBND cấp tỉnh được phân cấp mạnh mẽ trong việc thẩm định, chấp thuận chủ trương đầu tư bao gồm cả công trình lớn, kể cả việc phê duyệt phương án bảo vệ đập, hồ chứa thủy điện quan trọng đặc biệt. Các bộ, ngành trung ương giữ vai trò xây dựng chính sách, lập quy hoạch tổng thể và kiểm tra việc thực hiện. Do đó, trách nhiệm trong việc thẩm định thiết kế, phê duyệt, kiểm tra phương án bảo vệ đập, hồ chứa nói chung tại các địa phương là rất lớn và rất quan trọng.
Hiện nay, việc quy hoạch ngành quốc gia chỉ quy định phân bổ tổng công suất đối với nguồn thủy điện cho từng địa phương. Theo đó, các địa phương sẽ phải thận trọng cân nhắc lựa chọn vị trí và quy mô các dự án cần triển khai để đưa vào quy hoạch tỉnh tự thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư để đầu tư xây dựng dự án phù hợp phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Lưu Hiệp